để khỏi bị
treo cổ
1)-
Viễn kiến, theo nghĩa nôm na là “nh́n xa
thấy rộng”. Ấy là nhận định về những
người khôn ngoan, thông minh, biết xem xét t́nh thế
trong ngoài, tiên đoán được những ǵ có thể xảy
ra, có lợi hay hại, v.v... không phải chỉ cho cá nhân họ
mà cho một số đông người, một cộng đồng,
đất nước.
Những người lănh đạo, những
nhà cách mạng, chính trị có được viễn kiến
th́ rất có lợi cho bản thân họ, đảng phái
hay toàn bộ đất nước, dân tộc, v.v...
Nh́n chung, nếu họ có viễn kiến,
chuẩn bị, sắp đặt cho con đường đi
tới của dân tộc th́ họ nhông những là một
thiên tài, mà c̣n là bậc cứu tinh...
Những nhà độc tài, tham lam, ích kỷ...
không thể là người có viễn kiến, v́ cái tham, cái ích
kỷ che mờ cái nh́n của họ, kết quả không những
họ bị mạng vong mà đất nước cũng rơi
vào rối loạn, xáo trộn, bất hạnh...
Trong ư nghĩa đó, Đức Đạt
Lai Lạt Ma, ông Lư Quang Diệu, ông Gorbachov là những người
có viễn kiến.
Trong bài “Tây Tạng: tự thiêu và cuộc đấu
tranh mới” tác giả có nhận định về đường
lối đấu tranh trung dung của Đức Đạt
Lai Lạt Ma từ khi Ngài rời khỏi Tây Tạng năm
1959. Đường lối đó không dem lại kết quả
mong muốn, không đánh đuổi Tầu cộng khỏi
Tây Tạng, mà sự đàn áp càng ngày càng khốc liệt hơn,
chính sách đồng hóa của Trung cộng ngày càng mănh liệt
hơn. Mới đây, Đức Đạt Lai Lạt Ma
tuyên bố Ngài sẽ từ bỏ vai tṛ chính trị, nhường
chức vị thủ tướng cho một người
trẻ hơn.
Thành phẩn trẻ trong cộng đồng
người Tây Tạng tỵ nạn có khuynh hướng đấu
tranh tích cực hơn, nếu chưa muốn nói là sẽ bạo
động, quyết liệt hơn chứ không c̣n tính trung
dung như Đức Đạt Lai Lạt Ma chủ trương.
Việc Ngài rút lui khỏi vai tṛ chính trị
là một viễn kiến. Có lẽ Ngài thấy được
khuynh hướng chính trị thế giới ngày nay, không phải
cho một quốc gia nào, vùng nào mà cho toàn bộ thế giới,
bắt nguồn từ trong sự tiến bộ của nhân
loại từ hàng trăm năm nay mà tác giả sẽ tŕnh
bày ở phần sau.
Cũng trong viễn tượng đó, ông
Lư Quang Diệu, cựu thủ tướng
Thế tạo sao trước kia ông chưa
nhường?
Vậy th́ khi ông c̣n trẻ, c̣n cầm quyền
được, thế hệ trẻ... chưa có?
Tác giả có vài nhận xét về ông Lư, xin
tŕnh bày:
Có vài điểm mốc trong cuộc đời
ông Lư Quang Diệu nó cho ta thấy con người ông Lư Quang
Diệu là người như thế nào!
a)-
Dĩ nhiên, Lư
Quang Diệu là người Tầu, hay nói đúng hơn là
người
Ví dụ người Đài Loan.
Từ
trước thế giới Chiến tranh Thứ hai, Nhật
chiếm đóng Đài Loan. Sau khi đầu hàng Đồng
Minh, Nhựt tuyên bố trả lại Đài Loan cho Tầu
th́ người Đài Loan mừng lắm. Nhưng khi Tầu
Cộng đ̣i sát nhập Đài Loan với lục địa,
coi như Đài Loan là một tỉnh của Trung Cộng
th́ dân Đài Loan sợ xanh máu mặt. Gặp vài người
Đài Loan, nếu chúng ta hỏi họ có phải là người
Chinese không th́ họ nói không. Họ nói họ là người
Taiwanese! (người Đài Loan)
Người
Tầu Hồng Kông cũng vậy. Vài ba năm trước
năm 1997 là năm Anh trả Hồng Kông lại cho Tầu
th́ người Hồng Kông rục rịch muốn bỏ Hồng
Kông mà đi! Họ sợ người Tầu lục địa
đấy! Huống chi
Vậy th́ chúng ta có thể hiểu ông Lư
Quang Diệu không muốn
Để bảo vệ nền độc lập của
ḿnh, năm 1961, Lư Quang Diệu đưa Singapore tham gia “Liên
bang Đại Mă Lai Á”, gồm Mă Lai, Singapore, Sabah, Sarawak và
Brunei. V́ không thể giải quyết được những
mâu thuẫn trong nội bộ liên bang, nhất là với Mă
Lai, nên năm 1965, Lư Quang Diệu phải rút Singapore ra khỏi
liên bang này.
An ninh là nỗi lo lắng lớn nhứt của
ông Lư Quang Diệu đối với “quốc gia thành phố”
của ông. Quốc gia của ông không có nước ngọt,
sống nhờ vào nguồn nước ngọt từ Mă Lai
chuyển qua bằng đường ống. Tài nguyên cũng
không. Diện tích nhỏ hẹp. Dân số ít. Quân đội
yếu... Làm sao nó có thể tồn tại với độc
lập là chính yếu, không sống dựa vào một “đại
ca” nào hết, nhứt là trước Tầu cộng, đang cành ngày càng
mạnh, sau khi Mao cai trị lục địa.
Lư
Quang Diệu khôn khéo xoay xở bằng nhiều cách: Núp dưới
chiếc dù Liên Pḥng Đông Nam Á, Hiệp hội Các Nước
Đông Nam Á (Asean), Hiệp ước Pḥng thủ Ngũ cường
((Five-Powers
Defense Agreement, FPDA), gia nhập
Liên Hợp Quốc, v.v...
Ngày nay, có lẽ nỗi lo sợ của Lư
Quang Diệu về
b)-
Phát triển kinh tế
Giành được độc lập, rồi
tách khỏi “liên bang”, có nghĩa Singapore gặp nhiều khó
khăn kinh tế, ít nhất, Singapore mất thị trường
liên bang.
Trao trả độc lập cho
Tuy nhiên, vốn thông minh và giỏi thương
mại, ông xử dụng ngay các doanh trại quân đội,
các phương tiện sửa chữa tầu bè của quân
đội Anh để lại vào mục đích dân sự.
Trong chương tŕnh công nghiệp hóa Singapore, Lư Quang Diệu biến Singapore
thành một khu vực được gọi là “duty not paid”,
biến Singpore thành một “kho hàng” cho vùng Đông Nam Á, hàng hóa
có thể dùng Singapore như một trạm chuyển tiếp,
khỏi phải trả thuế, nhưng tạo ra nhiều
công ăn việc làm cho người dân ở đây!
Lư Quang Diệu c̣n thực hiện nhiều
chương tŕnh kinh tế khác nữa, làm cho đời sống
dân chúng
c)-
Độc tài, gia trưởng, cha truyền con nối
Trong quá tŕnh tiến lên cầm quyền và
cai trị, Lư Quang Diệu lần hồi loại trừ các
đối thủ chính trị. Cũng phải nhận rằng,
về chính trị, ông có nhiều thủ đoạn. Sau khi
cùng với các “đồng chí” thành lập đảng “Nhân
dân Hành động”, ông liên kết với các tổ chức
nghiệp đoàn có khuynh hướng thiên Cộng. Sau đó,
ông loại trừ đối thủ ở các đảng
khác, tấn công các lănh tụ nghiệp đoàn thân Cọng,
khiến những người nầy lưu vong sang Anh. Bấy
giờ, ông nắm hết quyền hành, phát triển đất
nước về mọi mặt, được sự kính
trọng và yêu mến vô cùng của dân chúng
Trong ư nghĩa đó, Lư Quang Diệu chứng
tỏ được cho mọi người thấy, dù độc
đảng, độc tài, cũng có thể phát triển
đất nước giàu mạnh được.
Chính v́ điểm nầy mà cố thủ
tướng Vơ Văn Kiệt vận động mời ông
Lư làm cố vấn cho chính phủ Cộng Sản Hà Nội,
để Dziệt Cộng đi theo con đường độc
đảng và phát triển đất nước của ông
Lư. Cộng sản Việt
Cũng trong thời kỳ đó, tâm lư ông Lư
chưa thoát ra khỏi tính chất phong kiến xă hội Tầu
mà nguồn gốc tổ tiên ông từ đó di cư tới.
Trong nền chính trị Singapore mấy chục năm qua, dù
khi ông cầm quyền hay khi rút lui làm “bộ trưởng”,
dù ông vẫn kính trọng người cộng sự cũ
của ông là ông Ngô Tắc Đống nay đă làm thủ tướng,
người ta nghĩ ông Lư như một gia trưởng,
cắt đặt mọi công việc, hoặc ít ra cũng
là một thái thượng hoàng. Dù yêu mến, kính trọng và
cám ơn ông ta đă có công xây dựng đất nước
Singapore, th́ dân chúng, nhứt là với giới trẻ, vẫn
không ưa hành động cha truyền con nối, khi ông sắp
đặt mọi sự để ông Lư Hiền Long sẽ
nối ngôi ông Ngô Tắc Đống khi ông Đống rời
ghế thủ tướng (2004).
d)-
Một con người, hai văn hóa!
Con người ông Lư pha hợp giữ hai nền
văn hóa khác biệt nhau. Một là văn hóa truyền thống
của người Tầu, khi rời xa đất nước,
họ vẫn mang theo trong hành trang của kẻ lưu dân.
Văn hóa ấy, hiển hiện rơ nét trong các hành động
chính trị gia trưởng và truyền ngôi như đă nói
ở trên.
Nhưng
ông Lư đă từng theo học
đại học Fitzwilliam, đại
học
Hậu
quả việc theo học ở Anh, cũng như tiếp
xúc với văn hoa Tây phương, ông hiểu rơ những
giá trị về Tự do, Dân chủ của nó. Thành ra, ông Lư
không có cái nh́n cứng nhắc, cố chấp và “cận thị”
như các lănh tụ Cộng Sản Việt Nam và Tầu cộng.
Cuộc bầu
cử Quốc hội Singapore ngày 07/05, qua đó đảng Nhân Dân Hành Động
tuy vẫn chiến thắng, nhưng kể từ 50 năm qua, chưa bao giờ gặt hái một kết quả tồi
tệ như vậy.
Chính
nhờ viễn kiến mà ông Lư và các lănh đạo trong đảng
Nhân dân Hành động thấy trước con đường
dân chúng Singapore phải đi cho phù hợp với “Ngọn
trào Tự do Dân chủ” thế giới.
Ban đầu, trước bầu cử,
ông Lư đă đe doạ những cử tri
bỏ phiếu cho phe đối lập. Lời đe
dọa đó làm cho một số không nhỏ dân
chúng bất b́nh, bực tức đối với chính
quyền.
Thay v́ sợ và nghe lời ông Lư, một
số không ít dân chúng bỏ phiếu cho phe đố
lập. Lần đầu tiên từ 50 năm
nay, người Singapore đă dám chỉ trích công khai, - phần
nhiều
là qua
Internet, vị “Bộ trưởng Cố vấn” vốn rất
được dân chúng kính trọng. Ông dă trở thành
sự phiền hà cho chế độ Singapore cũng
như đối với đảng cầm quyền mà ông
đă sáng lập.
Đối
với
kết quả bầu cử, thủ tướng Lư Hiền
Long thẳng thắn “ghi nhận đó như là lời cảnh cáo của dân chúng”,
đồng thời xác định rằng chính
trường Singapore đă chuyển qua “một khúc quanh
mới mà đảng cầm quyền phải thích nghi”.
Theo thông tín viên Carrie Nooten tại
Singapore, với quyết định rời khỏi chính
quyền, rơ ràng ông Lư Quang Diệu và giới lănh đạo đảng của ông đă biết lắng
nghe tiếng nói của người dân và thích nghi với
bước chuyển biến mới:
“Đây là một
biểu tượng rất mạnh. Khi rời chính
quyền mà ông vẫn liên tục tham gia từ 52 năm nay,
với lư do là nhường chỗ lại cho những
người trẻ, ông Lư Quang Diệu đă đánh dấu
một khúc quanh quan trọng trong đời sống chính
trị của đảo quốc.
Khó mà biết
được rằng đây có phải đây là quyết
định của chính ông hay không, nhưng dẫu sao th́
sự kiện đó đă cho người dân Singapore
cảm tưởng
là chính quyền biết lắng nghe lời phản
đối của họ qua cuộc bầu cử tuần vừa qua
và tại Singapore, chế độ dân chủ bắt
đầu có dấu hiệu vận hành tốt.”
Công trạng Lư Quang Diệu: vừa phát
triển đất nước, vừa chống Cọng Sản,
đặc biệt là Tầu Cộng.
2)- Sự phát triển của các phong trào Tự Do Dân chủ Tây phương nhờ những tiến bộ về tư tưởng và khoa học
a)-
Cách mạng Hoa Lài và ngọn trào dân chủ
Tuy ông Lư gọi là “nhường
bước cho thế hệ trẻ” nhưng rơ ràng đây là cơn chấn động chính
trị trong những ngày qua được mệnh danh là
“sự chuyển biến Hoa Lan”, phản ảnh
cuộc “Cách
mạng Hoa Lài”, v́ người ta nghĩ rằng
người Singapore sẽ không xuống đường
biểu t́nh.
Không xuống đường biểu t́nh không có nghĩa là
không chống đối, là không đi theo “Ngọn triều
Tự do Dân chủ” đang dâng lên ở Trung Đông và Bắc
Phi.
Cuộc cách mạng ở
Trung Đông và Bắc Phi, bây giờ được báo chí quốc
tế gọi là “Mùa Xuân Ả Rập”, có nguồn gốc sâu
xa, không đơn giản chỉ là “sự kiện ở địa
phương” mà có thể từ trong trào lưu tiến bộ,
con đường đi tới Tự Do, Dân Chủ của
nhân loại, bắt nguồn từ nhiều thế kỷ
trước, và c̣n đi tới nữa, trên con đường
đi tới tương lai.
b)-
Nhân loại đang đi tới
Tôi khó quên lời nhà văn Đ́nh
Ngân (Lê Đ́nh Ngân, tác giả tập truyện ngắn “Phong
Lan” trước 1945), là người dạy Việt Văn
cho tôi năm tôi học lớp Đệ Lục (1951-52)
Bấy giờ, ở Mỹ
người ta ngưỡng mộ J. Krishnamurti, gọi ông là Phật sống. (1) Thầy giáo Việt Văn
nói chuyện ấy với chúng tôi, trong khi chúng tôi chẳng
có chút tŕnh độ nào về Phật pháp. Tuy nhiên, kết
thúc buổi nói chuyện với bọn học tṛ chúng tôi đến
thăm thầy hôm đó, nhà văn Đ́nh Ngân nói: “Nền văn
minh nhân loại đang vận hành ṿng quanh thế giới.
Nó phát xuất từ vùng Lưỡng Hà, phát triển khắp
vùng Địa Trung Hải, rồi qua Châu Âu, tỏa sáng khắp
vùng nầy, bây giờ nó đang phát triển ở Mỹ.
Trong tương nó sẽ đi ṿng qua châu Phi. Sau khi hoàn thành
sứ mạng ở đó, hy vọng nhân loại sẽ hiểu
nhau hơn và sống trong ḥa b́nh, hợp tác với nhau.
Tôi không rơ đó là tư tưởng thầy
giáo Việt Văn của tôi hay ông đọc đâu đó
trên sách báo Âu Mỹ, nhưng nó tạo nên một niềm hy
vọng trong tâm hồn chúng tôi, những đứa trẻ đang
oán ghét chiến tranh, khi ấy nước Việt Nam đang
ch́m đắm trong lửa đạn, và mấy năm học
hè ở trường Théresa với chị Cần, hiệu
trưởng, mỗi ngày chúng tôi vẫn cầu kinh, vẫn
hát “Mẹ ơi đoái thương cho nước Việt
Nam, Trời u ám chiến tranh điêu tàn. Mẹ hăy giơ tay
ban phút b́nh an. Cho VN qua phút điêu linh.” Lời cầu nguyện
đó, ngày trước, đă không thấy ǵ mà cho đến
bây giờ, cũng chẳng thấy ǵ cho dân tộc Việt
Mấy năm sau, lớn hơn và học lên
những lớp cao hơn, khi học về Zadiq của
Voltaire, về Contrat Social của Jean-Jacques Rousseau, về
Montesquieu, về Diderot... tôi vẫn thường đến
thăm thầy giáo Việt Văn cũ, người phát hiện
khả năng và khuyến khích tôi viết văn, tôi tŕnh bày
với thầy về những điều tôi chưa biết
rơ.
Về các tác giả nói trên, tôi được
biết thêm rằng cuộc cách mạng tư tưởng và
phát triển của nó trong văn học Pháp đă cởi bỏ
những xiềng xích của các chế độ chính trị
thần quyền ở Châu Âu, làm cho khoa học phát triển,
phục hưng và củng cố tinh thần bảo vệ
và tôn trọng Tự Do và Dân chủ, làm kim chỉ nam cho các
cuộc cách mạng dân chủ, dân quyền Âu Mỹ, giải
phóng phần phía Tây của Châu Âu và Bắc Mỹ.
Gần
cuối thế kỷ 20, tinh thần của “Cao trào tự
do dân chủ Âu Mỹ” đó đă đánh sập các chế
độ Cộng sản trên thế giới, mở ra một
thời kỳ mới của nhân loại.
Tôi không mấy khi quên niềm hy vọng về
sự tươi sáng cho tương lai nhân loại, và cũng
lắm lúc, tôi thấy nhiều vết u ám hiện ra trong tương
lai đó.
Chúng ta sinh ra trong một thời kỳ nhân
loại có nhiều biến chuyển vĩ đại, chẳng
hạn như việc sụp đổ bức tường
Bá Linh. Mấy ai được sung sướng như chúng
ta, bỗng một hôm nghe tin bức tường phân cách thế
giới làm hai ấy bị đập tan, và tiếp theo là
làn sóng đỏ thô bạo rút ra khỏi gần một nửa
quả địa cầu.
Sau biến cố 911, không những chúng ta
thấy đau đớn v́ việc gần ba ngàn người
vô tội bị giết ở Nữu Ước, mà chúng ta
c̣n buồn phiền v́ sự cuồng tín và tàn ác của một
số người theo đạo Hồi.
Trong
mối thù hận kéo dài từ những cuộc Thập Tự
Chinh, người Hồi giáo cuồng tín không ngại khi làm
cho máu của nhân loại chảy thành sông. Sự cuồng
nhiệt và hận thù của người Hồi cực đoan,
mà tiêu biểu là al Qeda, liệu rồi nó có làm nhân loại
không c̣n một chút ǵ gọi là nhân đạo nữa để
có một cuộc sống yên b́nh hay sao?
3)- T́nh h́nh các nước Ả
Rập trước các biến chuyển trọng đại
a)- Hồi giáo và người Ả Rập
Các
dân tộc Ả Rập đă có một nền văn minh sớm
và cao trong lịch sử loài người.
Tuy
nhiên, Dân tộc Ả Rập và Hồi giáo, trong nhiều cách
nh́n là hai nhân tố khác nhau. Dân tộc các nước Ả
Rập xuất hiện ở Trung Đông và vùng Bắc Phi từ
rất lâu và họ có một nền văn minh sớm nhứt
của nhân loại. Đó là Văn Minh Lưỡng Hà, xuất
hiện cách đây hơn 5 ngàn năm, ở chỗ lưu vực
hai con sông Tigres và sông Euphrates gặp nhau, trước khi đổ
ra vịnh Ba Tư.
Dấu tích của nền văn minh Lưỡng
Hà là vườn treo Babylon, một trong 7 kỳ quan của
nhân loại, tháp Babê, và chuyện cổ tích “Một ngàn lẻ
một đêm”. Văn tự của người Ả Rập
cũng xuất hiện vào thời kỳ đó.
Văn minh Hồi giáo chỉ là tiếp nối
văn minh Ả Rập, dấu tích của nó là đền Taj Mahal và các nhà thờ
Hồi Giáo, dinh thự nổi tiếng đẹp đẽ
và hùng vĩ. Người Hồi cũng học hỏi văn
minh Hy La và văn minh của những quốc gia, dân tộc
mà họ cai trị, để làm phong phú thêm Văn minh Hồi
giáo.
Khi đạo Hồi phát triển và thống
trị khắp vùng nầy th́ tiếng Ả Rập đă
tiêu diệt các ngôn ngữ khác và trở thành ngôn ngữ chung
cho toàn vùng.
Ai Cập là một quốc gia đặc sắc
của vùng nầy, cũng có một nền văn minh rất
sớm. Vào thế kỷ thứ
7, đạo Hồi đă chinh phục đất nước
nầy. Ai Cập bị Hồi giáo hóa và nhường cái bản
sắc của dân tộc cho đạo Hồi.
Đối chiếu với các nền văn
minh khác như nông nghiệp, công nghiệp th́ văn minh Hồi
giáo là nền “Văn minh Chăn nuôi”. Thổ địa Trung
Đông, Bắc Phi là vùng sa mạc, đất đai khô cằn,
chỉ thích hợp cho việc chăn nuôi, đặc biệt
là dê, cừu, ḅ. Lương thực chính yếu là thịt
và sữa. Nói theo cách của giáo sư Lê Văn Siêu, đó là
nền “Văn minh Ăn Thịt”, khác với các dân tộc Á
Đông, thuộc nền “Văn minh Ăn Rau”. (2) Cũng
theo giáo sư Lê Văn Siêu, con người trong xă hội “Văn minh Ăn Thịt”
nhiều dục vọng hơn con người trong xă hội
“Văn minh Ăn Rau”.
Đạo
Hồi do ông Muhammad một thương gia giàu có sáng lập
ra tại La Meque trong bán đảo Ả Rập Sé-Út (
Ông tự cho là người nhận được
thông điệp từ thượng đế, sáng lập
ra Hồi giáo. Đạo Hồi bành trướng rất
nhanh và khắp vùng, từ Tây Ban Nha tới Trung Á. Ông không chỉ là nhà sáng lập,
rao giảng đạo mà c̣n là 1 chiến sĩ và
là một nhà cai trị .
Đạo Hồi là
một tôn giáo lớn, chủ trương tôn trọng phẩm
giá con người, thương yêu và giúp đỡ người
nghèo khó, dạy người khác chủng tộc sống
chung với nhau như huynh đệ và khoan dung với người
khác tôn giáo. Tuy nhiên, giống như các tôn giáo khác ở khu vực
Địa Trung Hải, Hồi giáo đă trải qua nhiều
giai đoạn cạnh tranh và chống đối lẫn
nhau, mà tín đồ Hồi giáo nh́n người dị giáo bằng
hận thù và bạo lực.
Ngoài ra, tôn giáo và chủng
tộc trở thành những mâu thuẫn đưa tới
việc tàn sát lẫn nhau. Chẳng hạn cuộc chiến
tranh giữa I-Ran và I-Rak hồi thập niên 1980. Cả hai bên
đều tuyên bố chiến thắng: Với Saddam Hussein
th́ “người Ả Rập đă chiến thắng dân tộc
Ba-Tư”. Dưới con mắt của giáo chủ Ayatollah
Khomeini th́ “Người Hồi giáo đă chiến thắng kẻ
vô đạo.”
Đạo Hồi
buộc sự trung thành là chính. Đó là bản sắc chính
yếu của đạo Hồi.
Hồi
giáo, ngay từ khi h́nh thành đă có xung khắc với các tôn
giáo khác, bởi tính cách bất khoan dung về độc thần
như Ky Tô giáo, Do Thái giáo. Hồi giáo thường hay đề
cập đến những người đối nghịch,
một là v́ dị giáo, hai là về sự phân biệt quốc
gia, và gọi chung những kẻ đối nghịch đó
là kẻ “vô đạo”.
Đạo Hồi cũng là nền tảng
của đế quốc Ottoman
Sắc tộc chính của đế quốc
Ottoman là người Thổ Nhĩ Kỳ (cũng có khi người
ta gọi là đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ). Dân tộc
thuộc lănh thổ Ottoman chính yếu theo đạo Hồi.
Đế quốc nầy bắt đầu h́nh thành năm
1299 và hoàn toàn sụp đổ năm 1923. Thời kỳ hùng
mạnh nhứt của nó là vào các thế kỷ 16, 17. Lănh
thổ của đế quốc gồm các vùng Tiểu Á, Trung Đông, phần lớn
Bắc Phi và đông nam Châu Âu.
Vào
năm 1918, đế quốc Ottoman, là đế
quốc cuối cùng của các đế quốc Hồi
giáo hùng mạnh bị đánh bại. Bin Laden thường
nhắc đến mối thù 70 là tính từ điểm mốc
nầy. (1918)
Tham
vọng của những nhà lănh đạo Hồi giáo là một
thế giới Hồi giáo. Theo hầu hết các bản
kinh Koran (có 6 bản kinh Koran khác nhau), đạo Hồi dính
liền với việc xử dụng quyền lực chính
trị và quân sự. Nói nôm na là thần quyền thay cho
thế quyền. Giáo chủ vừa là người lănh
đạo tôn giáo, lănh đạo chính trị và tổng
tư lệnh quân sự. Sự mâu thuẫn quyền
lực vừa mới xảy ra ở I-Ran giữa tổng
thống Mahmoud Ahmadinejad và giáo chủ Ali Khamenei là một thí
dụ.
Khi đạo
Hồi h́nh thành, đất nước và dân tộc Ả Rập
đều dưới quyền cai trị của một người.
Ngay cả khi đế quốc nầy tan ră, trở thành
nhiều nước khác nhau, th́ h́nh ảnh một quốc
gia, một chính thể, một tôn giáo vẫn là cái ước
vọng trong cộng đồng Hồi giáo ở nhiều
nước, từ quốc gia trở thành đế quốc,
và việc kế nghiệp mang tính “tiên tri”. Trong t́nh trạng
các cộng đồng người Ả Rập hiện
nay ở Trung Đông và Bắc phi, th́ việc trở thành
một đế quốc nặng tính tôn giáo, như đế
quốc Ottoman là điều mong muốn của nhiều người.
Bắt rễ từ mặc cảm thua trận
và bị đàn áp, giết chóc từ những cuộc Thập
Tự Chinh, từ sau khi Ottoman tan ră, cái cảm nghĩ bị
lăng nhục, bị bóc lột càng ngày càng mạnh trong cộng
đồng người Ả Rập Hồi giáo, trong khi họ
vẫn tự hào cho rằng ḿnh là những con người
duy nhất ǵn giữ chân lư của thượng đế,
được thượng đế trao cho nhiệm vụ
mang chân lư Hồi giáo đến những người “vô đạo”,
là những người không phải tín đồ đạo
Hồi.
Kể từ khi có những cuộc cách mạng
khoa học, mà dầu lửa là nhu cầu cần thiết,
là máu huyết nền kinh tế hiện nay của thế
giới, nhất là sau thế giới chiến tranh thứ
hai, những kẻ “vô đạo”
nầy, qua trung gian những phần tử “phản đạo”
– là những nhà cai trị ở địa phương -, đă
bóc lột hết tài nguyên của người Hồi. Đất
đai phần lớn là sa mạc, không trồng trọt được,
trong khi dầu lửa dưới ḷng đất th́ bị đế
quốc tư bản lấy hết, khiến người Ả
Rập sống trong cảnh nghèo đói, đẩy họ càng
ngày càng xa rời với chân lư Hồi giáo.
Hơn thế nữa, giáo lư Hồi giáo rất
dễ bị các giáo chủ, các ông đạo hay những nhà
lănh đạo chính trị cực đoan khai thác để
chống lại Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo.
Trong nghệ thuật lănh đạo, khích động
ḷng hận thù, căm ghét kẻ đối địch là một
phương sách để dễ lôi cuốn quần chúng
nghe theo và ủng hộ. (Những người có kinh nghiệm
chống cọng biết rơ sự kiện nầy)
T́nh h́nh Trung Đông và Bắc Phi hậu bán
thế kỷ 20 chứng minh điều ấy. Khi những
người cực đoan nắm được giáo quyền
hay chính quyền đều lấy mục đích tấn công
Âu Mỹ để khích động
tinh thần dân chúng Ả Rập, tạo nên những cuộc
chiến tranh mà họ gọi là “Thánh chiến” (Jihad)
Khi
những người Hồi giáo cực đoan chủ trương
chống lại những kẻ, thứ nhứt là, không phải
tín đồ Hồi giáo, mà lại theo Ky Tô giáo (thờ chúa
Giê Su, không cần thống thuộc giáo hội La Mă hay không),
thứ hai là bóc lột tài nguyên các xứ Ả Rập (là dầu
hỏa, rất quí báu nên được gọi là “vàng đen”)
mà đứng đầu là các đại công ty dầu lửa
của Mỹ, th́ các lănh tụ tôn giáo hay lănh tụ chính trị
cực đoan thù hận nước Mỹ th́ điều
đó không c̣n lạ lùng ǵ nữa.
Hơn thế nữa,
Mỹ là quốc gia giàu mạnh nhứt thế giới, th́
với người Hồi giáo cực đoan, Mỹ là tên
“đầu sỏ trong thế giới của những kẻ
vô đạo”.
Thành phố La Mecque (Mecca) ở Ả Rập
Xê Út ( Saudi Arabia) là “thánh địa”
của người Hồi giáo đă bị Mỹ “cai
trị” qua trung gian những tên “phản đạo” ở
thủ đô Ryadh. “Mỹ chiếm cứ Arabia, phần
đất đai linh thiêng của người
Hồi giáo, chiếm đọat tài nguyên, khống
chế các nhà cầm quyền, lăng nhục người
Ả Rập, uy hiếp các nước chung quanh, lập
căn cứ quân sự, hiếp đáp người Hồi
giáo ở các nước lân cận, bênh vực và bảo
vệ cho nước Do Thái, v.v... Những điều ấy,
đủ để kết án
“trọng tội” cho nước Mỹ.
Ở bin Laden, người ta thấy rơ ḷng
ghét bỏ và thù hận người Mỹ, nước Mỹ
hơn bất cứ ở người Hồi giáo cực đoan
nào khác.
Khi Hoa Kỳ và đồng minh (thực tế
là Mỹ) đem quân giúp Koweit đánh đuổi quân đội
I-Răk của Saddam Hussein ra hỏi xứ nầy, bin Laden
yêu cầu các ông hoàng cầm quyền ở Ryadh không cho Mỹ
mượn đất lập căn cứ ở nước
Ả Rập, là “vùng đất thánh” để đánh
Saddam Hussein. Đề nghị của bin Laden không được
các nhà lănh đạo ở Ryadh nghe theo khiến bin Laden thù hận
Mỹ từ đó. Về sau, bin Laden qua
Cuộc
khủng bố 911, ở
một mức độ nào đó, là mở đầu
cuộc xung đột bằng
vũ lực của bọn Hồi giáo cực đoan
đối với văn minh Tây Phương.
Đó
là một cuộc chiến tranh mới, giữa một
tổ chức nhỏ, có
thể tấn công một cường quốc. “Các nhà chiến lược Hoa Kỳ
gọi là “cuộc chiến bất cân xứng” nhưng vô
cùng nguy hiểm, kẻ thù vô h́nh, nhưng ở đâu
cũng có thể có, lúc nào cũng có thể xuất hiện,
khó ngàn lần hơn chiến tranh qui ước là sở
trường của Mỹ.”
b)-
Ư nghĩa cách mạng Hoa Lài (Mùa Xuân Ả Rập)
Những
cuộc cách mạng mới đang nổi lên và đang tạo
nên một mùa xuân mới mà mới đây báo chí quốc tế
gọi là “Mùa Xuân Ả Rập ”.
Nhân
loại đă trải qua nhiều mùa xuân thật cũng có,
“dổm” cũng có. Jean Lacouture, nhà văn Pháp nói rằng “Chủ
nghĩa Cộng Sản là mùa xuân của nhân loại”. “Mùa xuân
Cọng sản” hiện nay đang thoi thóp ở Tầu, ở
Hà Nội, ở Cuba, ở Bắc Hàn, nơi càng ngày càng có
nhiều “khố rách áo ôm”, hoặc “quốc gia bị gậy”
như Bắc Triều Tiên.
Vậy
th́ trong tương lại, “Mùa Xuân Ả Rập” sẽ như
thế nào đây? Nó sẽ tiêu ma như “Chủ nghĩa Cộng
san là mù xuân của nhân loại” hay sẽ khá hơn?
“Mùa
xuân chủ nghĩa cộng sản” là một cuộc cách mạng.
Cuộc nổi dậy của nhân dân Mỹ chống lại
ách cai trị của người Anh là một cuộc cách mạng.
Sử gọi là cuộc “Cách mạng Mỹ”. Cuộc nổi
dậy của dân chúng Pháp năm 1789 để lật đổ
ngai vàng của Louis 14 là một cuộc cách mạng, sử
thường gọi là “Cách mạng tư sản dân quyền.”
Cuộc
cách mạng nào hữu ích và tồn tại, và có tiếng thơm
trong lịch sử? Cuộc cách mạng nào là vết đen
của nhân loại?
Điều
đó dễ hiểu. Cách mạng Pháp 1789, cách mạng Mỹ
1776 là những cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ
và nhân quyền th́ nó sẽ vang danh, là vẽ tươi sáng
trong lịch sử loài người. Cách mạng nào làm ngược
lại, sẽ mang tiếng xấu ngàn năm.
“Mùa
Xuân Ả Rập” là cuộc cách mạng đấu tranh cho
Tự do, Dân chủ và Nhân quyền cho dân chúng ở các vùng nầy.
Cuộc cách mạng ấy, dù nhanh, dù chậm, thậm chí vài
khi thoái trào, th́ cuối cùng nó sẽ thắng. Nhân loại không
c̣n con đường nào khác, ngoài con đường đi
tới tương lại tươi sáng của loài người.
4)- Vai tṛ nước Mỹ
a)-
Với hai trận Thế giới Chiến tranh:
Mỹ
nổi tiếng là một quốc gia giàu mạnh từ thế
kỷ 19, nhưng măi đến thế kỷ 20 Mỹ trở
thành quốc gia đóng một vai tṛ quan trọng trong việc
giải quyết nhiều khó khăn của thế giới.
Vai
tṛ của Mỹ trong hai cuộc thế giới chiến
tranh chẳng hạn. Thế giới chiến tranh thứ
nhứt kéo dài 4 năm
(1914-1918). Ba năm đầu các nước châu Âu đánh
nhau dữ dội, bất phân thắng bại, không ai biết
được kh nào cuộc chiến sẽ chấm dứt.
Năm 1917, Mỹ tham chiến, đứng về phe đồng
minh. Chỉ một năm sau, chiến tranh chấm dứt.
Thế giới thở ra, khỏe khoắn, lo phục hồi
đất nước. Mỹ co lại bên kia Đại Tây
Dương, với chủ trương bất can thiệp
vào châu Âu, theo chủ nghĩa
Chính
v́ thái độ nầy của Mỹ, hai mươi năm
sau, thế giới chiến tranh thứ hai (1939-45) lại xảy
ra. Ban đầu Mỹ cũng không can dự. Hai năm sau
ngày khởi chiến, ngày 7 tháng 17 nam 1941, Nhựt đánh úp
Mỹ ở Trân Châu Cảng (Pearl harbor), buộc Mỹ tham
chiến. Bốn năm sau chiến tranh chấm dứt, sau
khi Mỹ đă hy sinh nửa triệu binh lính, trên cả hai
chiến trường Châu Âu và Châu Á.
Cũng
chưa hết, sau khi chiến tranh chấm dứt, Mỹ
thi hành “kế hoạch Marshall” giúp các nước Châu Âu bị
chiến tranh tàn phá phục hồi đất nước.
Bên Châu Á, Mỹ trả độc lập cho Phi Luật Tân
năm 1947, và giúp Nhựt tái xây dựng đất nước
họ. Nhờ đó, Nhựt trở thành một đại
cường kinh tế.
b)- Giải thể thế
giới cộng sản:
Ngay
sau khi chiến tranh thế giới chiến tranh thứ hai
chấm dứt, Mỹ đóng vai tṛ hàng đầu trong các
nước tư bản, đương đầu với
cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Tự do và
Cộng Sản. Măi đến năm 1991, khối Cộng Sản,
đứng đầu là Liên Xô, thất bại và tan ră. (Về
sự đóng góp của cá nhân, xin đọc bài “Holly
Alliance” - tg dịch và đă đăng trên vài Web-site -, độc
giả thấy đó là công đầu của tổng thống
My Ronald Reagan và giáo hoàng Jean Paul 2.)
Nói chung, Mỹ vẫn là có công đầu
trong việc giải thể thế giới Cộng Sản,
giải phóng khỏi chế độ độc tài cho gần
một nửa nhân loại.
c)- Với thế giới
Ả Rập:
Bây giờ, nhân loại đang đối đầu
với “thế giới Ả Rập lạc hậu”. Chữ
lạc hậu nói ở đây, là nói chung đến các chế
độ độc tài, ít ra là chưa có tự do dân chủ
thật sự ở Trung Đông
và Bắc Phi, cụ thể là Tunisia, Ai Cập, Lybia, Syria, Yémen...
Việc Hoa Kỳ tấn công chế độ
Taliban ở
Ba năm
sau, tổng thống Mỹ xua quân tấn công I-Răk, tổng
thống Bush, ngoài lư do dầu lửa, lư do Saddam Hussein có vũ
khí giết người hàng loạt, c̣n môt lư do quan trọng
khác nữa: Muốn dựng nên một nước I-Rak
tự do dân chủ. Từ đó, quốc gia I-Rak như
một hạt nhân, sẽ lan rộng ra các nước chung
quanh, lần lượt toàn vùng Trung Đông và Bắc Phi, dân
chúng sẽ có tự do dân chủ.
Trong
viễn tượng đó, như lời giáo sư Lê Đ́nh
Ngân nói với tôi khi tôi học với ông ta, nền văn
minh của nhân loại, phát xuất từ Lưỡng Hà, từ
Ai Cập năm ngàn năm trước, đă đi một
ṿng địa cầu, từ cái nôi của nền văn
minh, phát triển qua châu Âu, châu Mỹ và nay trở lại nới
chôn nhau cắt rún của nó.
Sau đó,
nhân loại như thế nào? Sẽ tiến tới một
vận hội thế giới mới, hợp tác và phát triển
như một số nhà lănh đạo thế giới hô hào,
hay sẽ “tận thế” như lời “tiên tri” Harold Camping.
Trong
bài diễn văn của TT Bush ngày 22 tháng 8 năm 2007 tại
Kansas City, Missouri, sau khi đă tấn công I-Rak, về mục
đích như nói ở trên, tổng thống Bush phát biểu:
“Một Irak tự do
không có nghĩa là toàn hảo. Một Irak tự do không
thể có những quyết định mau chóng như
một quốc gia dưới thể chế độc
tài.”
Nhận định về các dân tộc Ả Rập
rong vùng nầy, TT Bush tuyên bố:
“Khắp vùng Trung đông, hàng triệu
người quá mệt mỏi chiến tranh, quá chán
ngán kẻ cai trị độc tài tham nhũng. Họ
chán ngán sự tuyệt vọng. Họ muốn có
được một xă hội mà danh phẫm và giá trị
con người được tôn trọng, và trẻ con có
thể ước mơ về tương lai tươi
sáng. Họ muốn tôn giáo được tôn trọng, và
họ muốn được tự do hành đạo.
“Chúng ta chiến đấu để mong đem
lại sự chân chính cho mọi người dù nam hay
nữ của vùng đất Trung đông ư thức
được tương lai của họ - và nâng cao xă
hội.”
Bên cạnh mục đích xây dựng một I-Rak
dân chủ, c̣n có một mục đích khác, v́ chính ên an ninh
của Hoa Kỳ:
“Nhưng một
nước Irak tự do sẽ đánh bại khủng
bố Al Qaeda. đó sẽ là tấm gương cho hàng
triệu người Trung đông, họ sẽ là
người bạn của Hoa Kỳ, họ sẽ là
người đồng minh trong cuộc chiến ư thức
hệ của thế kỷ thứ 21.
“Chúng
ta đừng quên lời tuyên bố của kẻ thù. Chúng
ta nên lắng nghe lời chúng nói. Bin Laden tuyên bố là “cuộc chiến [Irag] là
chỉ có ta hay kẻ địch thắng. Nếu ta
thắng th́ địch thủ sẽ nhục nhă và thua
cuộc vĩnh viễn”. Irag chỉ là một trong
nhiều mặt trận trong cuộc chiến chống
khủng bố
“Tôi giải thích lư do tại sao phải giúp
những nền dân chủ non trẻ ở Trung đông
được cơ hội vực dậy để
chống lại những phần tử Hồi giáo cực
đoan đó là con đường thực tiễn nhất
để thế giới cũng như người dân Hoa
Kỳ được an b́nh hơn.
Tuy nhiên, việc làm của ông Bush bị phê phán:
“Chính
sách dân chủ hoá vùng Ả Rập, tất cả
đều nằm trong dự án khổng lồ này của
chính quyền Bush, một dự án mang nhiều tính chất
của một cuộc truyền đạo Ki tô thời Trung
cổ.
Ngày nay, công cuộc của ông Bush được
tổng thống Obama tiếp nối, dưới một dạng
thức khác, không một màu sắc nào về công việc
truyền đạo Thiên Chúa như có thời nhiều người
phê phán về công việc của ông Bush trong chiến tranh
Afghanistan và I-Rak, mà c̣n ngược lại, mạnh mẽ và
dứt khoát hơn, đem lại sức mạnh và tươi
sáng cho “Mùa Xuân Ả Rập”. Trong bài diễn văn mới đây
của tổng thống Obama, chính sách mới của Mỹ,
được ông Obama diễn tả rơ hơn, đối
với từng quốc gia:
- Ai Cập: giúp người dân quốc gia nầy phục hồi sau vụ
gián đoạn đột
ngột v́ biến động đ̣i dân chủ bằng cách
giúp những nhu cầu tài chánh ngắn hạn của
nước này.
-
“quỹ doanh thương” để đầu tư vào Tunisia và
Ai Cập.
- Syria Tổng thống Bashar al-Assad có một lực chọn: lănh
đạo việc chuyển tiếp dân chủ hay tránh
đi nơi khác.
-
Tổng
thống Obama hứa Hoa Kỳ sẽ tiếp tục kiên
tŕ lập trường là người dân Iran cần
phải lấy lại được những quyền
của họ và có một chính phủ không bóp nghẹt những
nguyện vọng của người dân.
-
Tổng
thống Barack Obama ủng hộ đ̣i hỏi chính của
người Palestine về ranh giới của một
quốc gia tương lai. Tiến
đến một nền ḥa b́nh bền vững chấm
dứt cuộc xung đột Ả Rập-Israel khẩn
thiết hơn bao giờ hết
5)- “Cái bóng” của người
Do Thái
“Bên cạnh đó Cộng Đồng
Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương
nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng
máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ.
Họ gài được nhiều nhân sự vào bên trong hành
pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng
nhứt như ngoại giao, quốc pḥng và tài chánh,
thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và
nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do
người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong
Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị
sĩ và dân biểu gốc Do Thái, trong cả hai chính
đảng. V́ vậy, thế lực của Cộng
Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn
và đă khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa
Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do
Thái.
“Thế lực Do Thái này phải hiểu là
không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng
Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái
trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến
Washington D.C., từ Paris, tới London, Berlin, Moscow... với
tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4
triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa
Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác.
Thế lực này được điều
khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ
phận đắc lực gồm cơ quan t́nh báo Mossad
và Nghị Viện Do Thái Thế Giới ( - World Jewish Congress - từ năm 2007 đứng
đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder
người Mỹ gốc Do Thái ) . Ngoài
ra, Giáo sư (Nguyễn Ngọc) Huy c̣n chỉ dẫn cho
chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái
đặc biệt thường với mũi to loại
diều hâu, điển h́nh như Ngoại trưởng
Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.
(theo Phạm Trần Hoàng Việt)
&
Nh́n chung, nhân loại tiến tới không
ngừng, khi nhanh khi chậm nhưng không bao giờ dừng
lại. Dừng lại có nghĩa là rơi vào bóng đêm dài
tăm tối.
Tuy nền văn minh đầu tiên của
loài người xuất hiện cách đây năm ngàn năm,
nhưng có một thời gian dài, sự tiến triển của
nó rất chậm. Mặc dù Kinh Thánh đă nói tới tự
do và nhân phẩm, nhưng v́ những thế lực phản
động, phải đến Thế kỷ Ánh Sáng, tư
tưởng ấy mới phát triển và trở thành kim chỉ
nam cho các cuộc cách mạng tiếp sau đó.
Dù nói ǵ, giải thích bằng cách nào, th́
những tư tưởng căn bản trong “Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền” trong cuộc cách mạng 1789,
cũng như bản “Tuyên ngôn Độc lập” của
Cách mạng Mỹ năm 1776 và “Tuyên
ngôn Quốc tế Nhân quyền” là tuyên ngôn về các quyền cơ bản
của con người được Đại Hội Đồng Liên
hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948, là nền
tảng cho xă hội loài người ngay nay, dù ở Đông
hay Tây, ở Cựu hay Tân lục địa hay ở tận
cực nam lục địa châu Phi như quốc gia Nam Phi
chẳng hạn...
Như
đă nói, châu Âu, châu Mỹ và nhiều quốc gia trên thế
giới đă xây dựng đất nước họ trên
những nguyên tắc căn bản nầy.
Hiện giờ, làn sóng cách mạng đang
lan tới Trung Đông và Bắc Phi, xứ sở của
người Ả Rập, đem lại “Mùa Xuân Ả
Rập” cho dân chúng ở đây.
Nhân loại không có con đường nào
khác để chọn lựa, nếu muốn sống trong
thanh b́nh, phát tiển và hạnh phúc. Đó cũng là “Vận
hội thế giới mới” để các quốc gia cùng
hợp tác và phát triển.
Khi vừa nhậm chức, tổng
thống Ronald Reagan nhắn với Liên xô “Đối
dầu hay hợp tác”. Và Gorbachov đă chọn một con
đường đúng cho người Nga và 15 nước
Cộng Ḥa trong Liên bang Sô Viết.
hoànglonghải
(1) Đức Đạt Lai
Lạt Ma bấy giờ tuổi c̣n nhỏ, chưa nổi
tiếng và chưa lưu vong khỏi Tây Tạng (1959)
(1) T́nh cờ tôi tham dự
một buổi lễ của một người quen do một
ông mục sư (nguyên là một thiếu tá QĐVNCH) làm chủ
lễ cho buổi khai trương của hàng của người
quen ấy. Nghe ông mục sư đọc câu cầu nguyện
trong kinh thánh “Ta sẽ cho người
thịt trừu và ḅ sữa”, tôi mới hiểu thêm. Kinh Thánh
xuất phát ở Trung Đông cách đây mấy ngàn năm,
nền tảng là “văn minh chăn nuôi” nên mới nói tới
“thịt trừu và ḅ sữa”. Người Việt không ăn
thịt trừu và ít uống sữa mà thực phẩm chính
là cơm rau và một ít cá thịt v́ chúng ta thuộc “văn
minh lúa nước”. Tôi tự hỏi khi chúng ta tin theo một
tôn giáo phát xuất từ một nền văn minh khác với
văn minh của chúng ta, điều ấy có thể có những
trở ngại ǵ không? Các nhà nhân chủng học, văn hóa
và xă hội học, có ai bàn về vấn đề nầy
cho cặn kẽ chưa?
Thời gian ở trại tỵ
nạn Marang, Mă Lai, mỗi chiều tôi nghe tiếng người
Hồi giáo Mă Lai cầu kinh, phát ra từ một cái loa của
nhà thờ Hồi giáo gần đấy. Bắt đầu
buổi cầu kinh thường là một tiếng kêu dài,
như tiếng than buồn bă, làm tôi nghĩ tới những
người chăn nuôi dê cừu trong sa mạc. Buổi chiều,
khi cho gia súc trở về, kẻ mục đồng vừa
đi vừa hát, tiếng hát cũng ngân dài và buồn bă giống
như tiếng cầu kinh nói trên vậy. Nền văn minh
ấy, tạo ra tiếng cầu kinh như vậy!
(3) Ngày Phán Xét! Ngày 21 Tháng 5 Năm 2011
(trích):
http://www.ebiblefellowship.com/
Ngày 21 tháng 5 năm 1988, Đức Chúa Trời đă hoàn thành
sử dụng các hội thánh và các giáo hội trên thế
giới. Đức Thánh Linh cửa Đức Chúa Trời
được cât ra khởi các nhà thờ và Satan,
người đàn ông của tội lỗi, nhập vào nhà
thờ để cai trị tại điểm đó trong
thời gian. Kinh Thánh dạy chúng ta rằng thời gian này
thật khủng khiếp v́ sự phán xét trong các hội
thánh sẽ kéo dài trong 23 năm. Đúng 23 năm (8400 ngày
đúng) sẽ là từ Ngày 21 Tháng 5 năm 1988 cho
đến ngày 21 tháng 5 năm 2011. Diêu này được
phát hiện trong Kinh Thánh ngoài các thông tin liên quan đến
7000 năm kể từ lũ lụt. V́ vậy, chúng ta
thấy rằng thời gian 23 năm khổ nạn
đầy sẽ kết luận ngày 21 Tháng 5 năm 2011.
Ngày này là ngày chính xác mà các hoạn nạn lớn chấm
dứt, và điều này cũng rất có thể là kết
thúc cho 7000 năm kể từ khi lũ lụt trong ngày
của Nô-ê.
Hăy ghi nhớ rằng Đức Chúa Trời đóng cửa
tàu vào ngày thứ 17 của tháng thứ 2 theo lịch của
Nô-ê. Chúng tôi cũng thấy rằng ngày 21 tháng 5, năm 2011
là kết thúc của thời kỳ hoạn nạn lớn.
Có một mối quan hệ lớn giữa tháng 2 và ngày
thứ 17 của lịch Nô-ê và ngày 21 tháng 5, năm 2011
của lịch Gregory của chúng ta. Mối quan hệ này
không thể dễ dàng nh́n thấy cho đến khi chúng ta
phát hiện ra c̣n có một lịch khác, đó là lịch
Hê-bơ-rơ (hay là Kinh Thánh). Ngày 21 tháng 5 năm 2011 cũng
là ngày thứ 17 của tháng thứ 2 trong lịch
Hê-bơ-rơ. Bằng cách này, Đức Chúa Trời khẳng
định cho chúng ta rằng chúng ta có một sự
hiểu biết rất chính xác về thời gian 7000
năm từ khi lủ lụt. Ngày 21 tháng 5 năm 2011 là ngày
tương đương với ngày mà Chúa đóng của
tàu của Nô-ê. Thông qua điều này và nhiều chi tiếc
khác trong Kinh Thánh, chúng tôi thấy rằng ngày 21 Tháng 5 năm
2011 sẽ là ngày khi Chúa cất lên người dân đă
chọn bởi Ngày. Ngày 21 tháng 5 năm 2011 sẽ la Ngày Phán
Xét! Đây là ngày Đức Chúa Trời đóng cánh cửa
của sự cứu rỗi trên thế giới.