“Đất lành chim đậu” (tục ngữ)
(Người Tầu ở quê tôi, thị xă Quảng
Trị)
Cũng
giống như ở các thành phố, thị trấn toàn khắp
nước ta, người Tầu ở thị xă Quảng
Trị khá đông. Họ có những sinh hoạt, phần
nhiều là buôn bán, đóng góp vào việc phát triển kinh tế
của địa phương.
Tôi
không rơ họ đến định cư ở đây từ
lúc nào!
Có thể có những gia đ́nh đến
đây từ thời “phản Thanh phục Minh”, sớm nhất,
lâu nhứt hoặc có gia đ́nh đến định cư
hồi cuối thế kỷ 19 hay đầu thế kỷ
20, sau Cách mạng Tân hợi ...
Có thể nhà họ Lữ đến đây
sớm nhứt, tôi đoán chừng cùng một thời với
ḍng họ Phan Thanh... (Phan Thanh Giản, kinh lược Nam Kỳ,
chánh sứ phái đoàn sang Pháp xin chuộc ba tỉnh miền
Đông
Cụ Lữ Mộng Liên,
người lớn nhất và uy tín nhứt trong ḍng họ
Lữ nầy ở Quảng Trị, trước kia từng
làm thừa phái ở phủ Hải Lăng, khi ông Ngô Đ́nh
Diệm làm tri phủ ở đây, sau làm việc ở ṭa hành
chánh tỉnh Quảng Trị, trông ông cụ không có chút ǵ là
Tầu cả, đặc biệt trong cách phục sức
khi ông đi làm việc. Tôi c̣n nhớ h́nh ảnh ông cụ
khi tôi lớn lên. Ông cụ mặc áo lương đen dài,
quần là ông sớ, che dù, mang dép hạ. Các con ông cụ, có
người vào quân đội Việt
Ḍng họ Lữ ở Quảng
Trị khá đông, có thể có cả anh em ông trung tá Lữ
Quảng, ông đại úy (hay thiếu tá?) Thiết giáp Lữ
Chương Điền (bạn học với tôi), ông trung
tá không quân Lữ Phụng Tiên (Không phải dịch từ tên
văn hào La Fontaine của Pháp). Ông dượng tôi, ông Lữ
Thượng Thại, chủ hiệu hớt tóc Đồng
Sanh (Tôi thường gọi đùa là “Đồng sanh, đồng
tử”: sống chết có nhau), hiệu hớt tóc lâu đời
và lớn nhứt thị xă, vợ ông cùng họ Phan, bà con với
mẹ tôi. Gia đ́nh nầy “Phật tử thuần thành”.
Các con ông như anh Lữ Thượng Cống (sau gọi là
Công), Lữ thị Lân, Lữ thị Cần (bạn học
với vợ tôi) cũng có nhiều người biết đấy.
Gia đ́nh ông dượng tôi,
cũng như gia đ́nh tôi, chỉ c̣n cái họ gốc Tầu.
Đố ai t́m được cái áo xẩm, hay một chút
“chi hồ giả dă” (1) trong ngôn ngữ của họ.
Những già đ́nh khác th́ có
chút ǵ Tầu hơn.
Trong cách gọi, người
dân Quảng Trị cũng gọi họ một cách khác hơn:
gọi bằng “chú”, có nghĩa là “chú Ba” (ba Tầu), phân biệt
với chú Bảy (chú Bảy Chà, người Ấn độ).
Khi c̣n nhỏ, tôi không thấy chú Bảy nào lập nghiệp
ở Quảng Trị. Thỉnh thoảng, không rơ từ đâu,
họ đến bán vải, thường là lụa Bombay của
Ấn Độ. Họ đi
bán dạo từng nhà.
Chú Ba nổi tiếng giàu có
nhứt Quảng Trị là chú Quánh. Tôi không rơ cái tên Quánh nầy
từ đâu mà ra! Có thể là từ tiếng Tầu, tên tục.
Cửa hiệu của ông, mặt tiền th́ ở đường
Trưng Trắc, tức là đường chạy ṿng quanh
chợ Quảng Trị, ngó ra ngôi nhà lồng bán thịt, hậu
th́ ở đường bờ sông (đường Gia
Long), bên hông là con đường ngắn, nối đường
Trưng Trắc với đường bờ sông.
Trước 1945, của hiệu
nầy là một gian nhà ngói đỏ, thấp, rộng, trước
có tấm bảng hiệu chữ quốc ngữ “Diệp Đức
Kư”, phía dưới có chua hàng chữ Tầu. Dĩ nhiên là tôi
không đọc được hàng chữ Tầu nầy.
Tiệm bán đủ mọi thứ dụng cụ, kể
cả vật liệu xây dựng. Tôi, hồi ấy là thằng
nhóc con, đi ngang th́ ṭ ṃ nh́n vào xem, chớ không mua bán ǵ nên
không rơ về hàng hóa chưng bán trong tiệm.
Năm 1946, Việt Minh kêu gọi
(hay bắt buộc?) “tiêu thổ kháng chiến”. Hầu hết
công ốc, trường học, chợ búa đều bị
dân nhà quê nghe Việt Minh xúi dại, lên thành phố triệt
hạ thành b́nh địa. Tư gia, ai ở lại, chưa
tản cư th́ c̣n giữ được nhà của họ.
Năm 1948, sau 3 năm “chạy tản cư”, về lại
thị xă, tôi lại đi chơi lang thang và lại thấy
tiệm Diệp Đức Kư vẫn c̣n nguyên. Khoảng 1950
hay 51 ǵ đó, tôi không nhớ chắc, ngôi nhà bị phá bỏ,
xây cao lầu 1 từng, có sân thượng, cửa ngơ vách tường
theo kiểu hiện đại thời bấy giờ. Thế
rồi tôi đi xa, chẳng biết ǵ về sau!
Các người con lớn của
ông DĐK tôi chỉ biết lờ mờ. Họ thuộc bậc
đàn anh, như ông Diệp Hải Ba, Diệp Hải Dung
chẳng hạn. Khi tôi lớn lên, không rơ ông Diệp Hải
Ba ở đâu. Ở hải ngoại, thỉnh thoảng đọc Đặc
San Hương Quê, thấy ông có nói vài lời, xem ra ḷng “vọng
quốc Quảng Trị” của ông cũng c̣n nặng lắm!
C̣n ông Diệp Hải Dung là người dựng nhà máy nước
đá đầu tiên ở Quảng Trị, ngay bên hông nhà, kế
bên con đường nối đường Trưng Trắc
và đường Bờ Sông nói trên. Đi học ngang qua, tôi
thường nghe tiếng máy chạy xành xạch và cái dàn nước
lọc cao, nước từ trên ṿi cao tuôn ra xối xả,
trông vui mắt lắm. Tôi đúng là thằng nhà quê!!! Tiệm
kem Diệp Hải Dung, cũng tại nhà nầy, ngó ra chợ,
cũng là tiệm kem đầu tiên ở Quảng Trị.
Tiệm trang trí cũng đẹp, màn xanh, đèn đỏ
(Hồi ấy chưa có đèn néon). Lúc ấy chúng tôi đă
học trung học, vài lần vào kéo ghế ăn kem.
Có một bận, tôi và anh
em Hồ Diện, Hồ Dzơn, gom tiền đi ăn kem.
Diện tranh giữ tiền. Ăn kem xong, hai “anh em nhà họ
Hồ” nầy chọc quê tôi, chưa trả tiền mà đă
bỏ trốn mất tiêu, để tôi ngồi một ḿnh,
trơ mặt địa ra v́ không có tiền.
Tôi làm mặt tĩnh, tới
ngay quầy tính tiền. Ông Diệp Hải Dung lúc ấy mới
cưới vợ, để vợ ngồi làm “cát-shia”. Tôi
nói: “Thưa cô, em đi ăn kem với hai thằng bạn,
tụi nó giữ tiền, chơi ác, bỏ trốn mất.
Cô cho em cấn cái đồng hồ, mai em đem tiền lại
trả, lấy đồng hồ lui.”
Bà chủ cũng biết tụi
tôi nghịch nhau nên khi tôi đưa đồng hồ ra th́
bà ấy không lấy. Vừa khi đó th́ hai “anh em nhà họ
Hồ” thấy tôi “tỉnh” quá, bèn trở vào tiệm, cười
ha hả mà trả tiền. Tụi nó c̣n chê: “Đồng hồ
mầy chạy ít đứng nhiều, ai thèm lấy.” Hồi
ấy chưa có đồng hồ ôtômàtịt (automatique), tôi
thường quên lên giây nên đồng hồ nhiều khi không
chạy.
Sau nầy, ông Diệp Hải
Dung vào kinh doanh ở Đà Nẵng, mở nhà máy nước
đá, mở tiệm kem, kinh doanh xe đ̣ “Tiến Lực”,
giàu có lắm, giàu hơn bố mẹ nhiều!
Bà con gái lớn chú Quánh lấy
chồng khi tôi c̣n nhỏ. Khi tôi lớn th́ con gái lớn của
ông bà Việt Hoa, cô Vân, gọi ông bà Diệp Đức Kư bằng
ông bà ngoại, học một lớp với em gái tôi và Lê Văn
Tịnh, (gọi tôi bằng cậu). Tiệm Việt Hoa nầy
trước đó ít lâu là tiệm ăn Như Ư. Ông Việt
Hoa, thường gọi là ông Tú Ngành. Hồi xưa, thông thường,
đậu tú tài th́ người ta gọi là ông tú. Xưa lắm
th́ có Tú Xương. Quảng Trị th́ có ông Tú Phan (Thái Văn
Phan), anh Tú Mân (Phạm Ngọc Mân). Tôi không rơ về trường
hợp ông Tú Ngành, có đậu bằng ǵ không mà người
ta gọi là ông Tú. Trước 1945, ông làm ở nhà máy điện
(Sau nầy là rạp Đại Chúng). Sau 1954, ông bà Việt
Hoa vào buôn bán ở Qui Nhơn. Anh chị tôi cũng ở Qui
Nhơn, nói rằng hai ông bà Việt Hoa giàu có lắm. Ở
Qui Nhơn, hai ông bà cũng lấy hiệu Việt Hoa. Ông người
Việt, bà người Hoa, có phải vậy không hè?
Nhưng chị Trúc, con gái ông
bà Diệp Đức Kư, người Hoa lấy ông Vĩnh Bạch
người Việt th́ không suông sẻ. Ông Vĩnh Bạch
lúc ấy làm trưởng ty Thông Tin, trắng trẻo, đẹp
trai. Chị Trúc cũng nổi tiếng hoa khôi. Hai người
lấy nhau th́ xứng lắm, kẹt là một bên Việt,
một bên Tầu. Cuối cùng, họ cũng cưới được
nhau. Cưới xong rồi th́ ... đi mất. Thời đệ
nhứt Cộng Ḥa, ông Vĩnh Bạch làm đại biểu
chính phủ tại miền nam Trung phần, đóng tại
Nha Trang.
Phần đông, trang lứa
chúng tôi, nhiều người biết Diệp thị Kim Liên,
Kim Anh. Đi chơi với bạn, ngang nhà Diệp Đức
Kư, tôi thường đọc nhại câu thơ của Tú Xương
để đùa: “Cụ Sứ (tôi đổi là Cụ Kư)
có hai cô con gái đẹp, Lăm le xui bố cưới làm
chồng.”
H́nh như ông bà Diệp Đức
Kư có người con trai, lớn hơn tôi ít tuổi, cho “du
học” ở bên Tầu, không rơ ở Đài Loan, Hôngkông hay
lục địa. Sau nầy, tôi không nghe ai nói tin tức ǵ
về ông nầy. Du học ở Lục địa th́ coi
như “tiêu đời trai”.
Thứ đến là thím Tài
Chanh. Thím không nổi tiếng bằng cô Dung, con gái của
thím. Tôi không thấy “chú Tài Chanh” bao giờ, như tôi đă
từng thấy chú Quánh mặc áo Tầu ngồi gảy bàn
tính ở trong tiệm.
Cô Dung lấy ông Tây Mật
Thám. Ông Tây về Tây th́ cô Dung về theo, không như trong câu
ca dao Nam Bộ “Mười giờ ông chánh về Tây, Cô Ba ở
lại lấy thầy thông ngôn.” H́nh như trước
1975, cô Dung lại về lại Quảng Trị, bệnh hoạn,
không rơ về sau ra sao.
Em cô Dung là anh Vạ, (không rơ
họ tên). Bạn học với anh Lợi tôi, tới ngang
tiểu học th́ anh Vạ đi lính Lê Dương ở Đà
Nẵng. Trận Thanh Hương, anh Vạ gồi xe Crab.
Xe mắc lầy, anh ta bỏ xe mà lội bộ về.
Nhà Vạn An, người
ta gọi là thím Vạn. Ngôi nhà lầu mặt tiền ngó ra đường
Trưng Trắc, hậu ngó ra đường Quang Trung, được
xây từ thời Tây đô hộ. Sau nầy cũng vậy,
không thay đổi ǵ. Năm 1951-52, pḥng Thông Tin Hoa Kỳ đóng
ở đây, là nơi tôi vào ra hằng ngày để xem báo,
đọc sách. Thím Vạn có ngôi nhà vườn lớn, nằm
ở phía sau, đường Quang Trung. Nhà Ngân Hà và chị Ái
Loan nằm trong khuôn viên khu nhà nầy, bên con đường
đi vào kho dầu, nhà hoa khôi Quỳnh Hoa, vợ ông kỹ
sư Nguyễn Minh Tŕ.
Con gái thím Vạn An, cô Âu thị
Nga là bạn học với vợ tôi khi họ c̣n nhỏ lắm.
Mấy ông con trai nhà Vạn An rời Quảng Trị sớm,
tôi không rơ về sau ra sao!
Gia đ́nh thím Nàm cũng nổi
tiếng ở Quảng Trị. Họ mở tiệm chụp
ảnh Mỹ Hoa cùng với tiệm Xuân An là tiệm đầu
tiên sau khi hồi cư. H́nh tôi từng được chưng
ở đây, tay mang đàn ghi-tà, đầu đội mũ
vành, mắt đeo kiếng mát, nằm trong cửa kính, khoái
chí lắm. H́nh như thím có một người con trai là anh
rể ông bạn Lê Đ́nh Ái.
C̣n hai ông Tàu lai nữa, không
rơ con của chú thím nào! Một người là ông “Nộn”, rất
nổi tiếng nhiều mặt ở Quảng Trị. Ông
cũng có một hiệu ảnh trên đường Trần
Hưng Đạo nhưng không bằng hiệu ảnh Mỹ
Hoa. Ông có một người con gái, cũng nổi tiếng
đẹp và đă qua đời. H́nh như ông Nộn bây
giờ ở Nam Cali, và là “bạn” với ông tổng thống
Mỹ. Ấy là theo lời ông ta nói.
Em ông Nộn là ông Hiếu nổi
tiếng giàu. Ông Hiếu là người thứ hai dựng
nhà máy nước đá ở Quảng Trị, sau ông Diệp
Hải Dung không bao lâu. Ông Diệp th́ rời Quảng Trị
c̣n ông Hiếu tiếp tục làm ăn ở đó cho tới
măn địa.
Cửa hiệu chú Hiếu trên đường
Trần Hưng Đạo, tên là Mỹ Phát, có người
gọi đùa là Mả Phát, v́ mả không phát th́ làm sao giàu như
thế được, nhứt là sau khi quân Mỹ đến
đóng ở Ái Tử, kư với chú Hiếu nhiều hợp
đồng mua bán...
Ông Hiếu
là chồng chị Cúc, con ông xạ (xă) Quí, người làng
Thạch Hăn. Ông xạ Quí cũng giàu lắm, người ta
nói là nhờ mấy chị con gái buôn bán giỏi. Mấy người
đó, người th́ lấy chồng Tầu, như chị
Cúc. Chị con gái đầu, chúng tôi gọi là “chị Phú Răng”
v́ chồng chị là ông Tây lai Jean Durand, “xếp” Douanne. Có lần
tôi nói đùa, nếu như sau nầy cô Bạch Mai, cũng
nổi tiếng đẹp, mà lấy chồng Mỹ nữa
th́ đám ma ông xạ có đủ tiếng khóc... quốc tế.
Tôi cũng không quên ông Phù Trị
Hồn, bạn học lớp ba với tôi, nhà ở ngay
trong nhà lồng chợ. Xong lớp ba, Phù Trị Hồn du học
bên Tầu, không rơ về sau ra sao!!!
Hồi Tây c̣n cai trị, tiệm
chú Sừng đă nổi tiếng bán rượu Sica (2). Nhà
chú ở cuối dăy phố có tiệm của ông Lê Chí Khiêm và
tiệm hai cô gái Tầu lai tên Hoa và Ngọc (lép. Tóc thường
“đánh con rít”, bày ra cái đầu lép). Tiệm chú Sừng
cũng là tiệm chạp phô. Nhiều người cùng một
lứa tuổi với tôi, biết cô “Lan chợ Săi” (nhà ở chợ Săi).
Gọi như thế là để phân biệt với nhiều
Lan, nhiều Huệ ở tỉnh. Tôi tưởng cô Phan thị
Lan là nầy là con chú Sừng, không ngờ là cháu gọi bằng
chú. Ai dè cô Lan là vợ ông bạn học hồi tiểu học
Hoàng Văn Liệu, hiệu trương cuối cùng của
ngôi trường có tên là trung học Nguyễn Hoàng. Sau 1975, tên
Nguyễn Hoàng không c̣n nữa.
Sau lưng tiệm chú Sừng là tiệm
bà Tầu nhổ răng, không mấy khi thấy có khách, không
lư v́ bà ta “nhổ một, tặng một”?
Phần đông, tiệm thuốc
Bắc là của người Tầu. Trên kệ là một hàng
các thẩu thủy tinh lớn bằng nhau, kiểu giống
nhau, sắp hàng rất ngay ngắn, trong là những loại
thuốc, cái th́ lá, cái th́ rễ cây, cái là loại xắt từng
lát, màu vàng, như cam thảo. Sau khi xem phái thuốc, người
Tầu đứng sau quầy hàng hạ từng cái thẩu
trên kệ xuống, lấy thuốc ra và cân. Họ dùng thứ
cân tiểu ly, như ở tiệm vàng chớ không dùng cân
Roberval. Thuốc lấy ra, bỏ vào miếng giấy vuông,
màu vàng, bọc bên ngoài một lớp giấy vỏ, mầu
đỏ, có in dấu của “bổn hiệu”. Có khi có những
loại thuốc họ phải bỏ vào cối, giả nhỏ.
Cái cối, trông giống như cái chuông nhỏ, bằng đồng.
Sau khi giả xong, theo thông lệ, người bán thuốc lấy
cái chày đánh leng leng vào thành chuông mấy tiếng, nghe rất
vui tai. Tôi rất thích được nghe tiếng chuông ấy.
Chuông đánh lên sẽ được đắt khách, họ
nói vậy!
Ngoài thuốc Bắc, các tiệm
Tầu c̣n bán thuốc “Cao đơn hoàn tán” loại bột,
loại hoàn (viên). Phần nhiều là thuốc trị chứng
sốt, ban... cho trẻ nhỏ.
Trên đường Ga (Trần Hưng Đạo), gần
nhà ông Đốc Khôi, có một tiệm bán cao đơn hoàn
tán, phía ngoài có tấm quảng cáo em bé đẹp đẽ
sang trọng, mang giày có bít tất, che dù của nhà thuốc
Vơ Văn Vân, Saigon. Tôi thường đứng ngắm tấm
h́nh em bé che dù nầy, trông cũng không khác mấy với các
em bé trường Tầu ở đây. Ở đây cũng
có bán dầu Nhị Thiên Đường, xức vào mũi
cay lắm, thuốc xổ lăi, thuốc dán để dán mụt
nhọt hiệu Con Rắn. Mua hộp thuốc dán về, lấy
cái que tre, quệt thuốc dán mầu đen, dẻo quẹo,
vào miếng giấy bổi. Miếng giấy có chừa một
cái lổ để miệng cái mụt (nhọt) được
hở ra. Xong, dán vào mụt, ít bữa lành liền, như lời
quảng cáo. Gia đ́nh tôi không mua thuốc đau mắt ở
đây mà mua ở nhà “Mụ Viên Bốn”, gần ngă tư.
Thuốc màu đen, đựng trong cái nghêu. Rút một đọt
tre, quệt thuốc vào mắt, sẽ thấy đau tới
tận trời xanh!
Khi tôi c̣n nhỏ, có một
gia đ́nh người Tầu ở tại ngôi nhà lầu
ngó ra đường bờ sông, cạnh nhà cô Lữ Thị
Viên (em Lữ Chương Điền) rất giàu có và “văn
minh”. Tôi thấy đàn ông th́ chơi đờn violon, có mấy
cô mặc đầm. Nhưng tôi không thấy họ buôn bán
ǵ hết! Có lẽ gia đ́nh nầy thuộc họ Phan. Ông
Quảng Tường, rể cụ Lữ Mộng Liên, buôn
bán lớn, có phải tên ông ta là Phan Chánh Đông, thuộc họ
Phan nầy? Khi tôi đi dạy, có anh học tṛ tên Phan Tiên Trị,
sau ra bác sĩ, có lần anh ta nói với tôi rằng anh ấy
cũng là “dân” Quảng Trị như tôi. Có phải anh ta thuộc
họ Phan nầy nữa chăng?
Tiệm ăn Nhuận Kư, nổi
tiếng đồ ăn ngon và đông khách là từ sau hiệp
định Genève 1954 mà thôi. Tôi không rơ về gốc gác ông chủ
Nhuận Kư nầy.
Đời sống tinh thần
của những người Tầu nầy như thế nào?
V́ c̣n nhỏ, tôi không rơ lắm
vào hồi Pháp thuộc, người Tầu ở quê tôi có lập
ra Hoa Kiều hiệp hội ǵ đó, tôi không nhớ tên, như
Hoa Kiều hội của người Tầu ở
Mới đây, ông Nguyễn
Quang, hội trưởng hội Quảng Trị ở Nam
Cali cho tôi biết ông vừa đại diện cho hội
phúng điếu đám ma ông cụ Lư Thơ Thành. Ông cụ
nầy là chủ tịch (hay gọi là ǵ?) đầu tiên
Hoa Kiều hội Quảng Trị (chung cho toàn tỉnh). Sau
ông cụ Lư Thơ Thành mới tới phiên ông cụ Diệp
Đức Kư.
Hội là của toàn tỉnh
nên chúng ta biết người Tầu không chỉ có mặt
ở thị xă mà thôi, mà c̣n định cư và buôn bán làm ăn
ở nhiều thị trấn, huyện lỵ, phủ lỵ,
xă lỵ, các nơi khác trong tỉnh nữa. Có thể ông dân
biểu Tư Đồ Minh thời đệ nhị Cộng
Ḥa, hay ông trung úy Quang Tề, học tṛ của của tôi, có
tiệm buôn bán ở Diên Sanh là người Tầu lai ở
đây. Ngoài chợ Săi có gia đ́nh cô “Lan chợ Săi”, nơi
thị tứ như Đông Hà, các huyện lỵ Gio Linh,
Cam Lộ, phủ lỵ Vĩnh Linh hay vài xă có chợ, có buôn
bán cũng có người Tầu, nhưng tôi không nhớ hết,
biết hết. Phải chi ở mỗi nơi, có một
người nào đó, viết một bài về người
Tầu ở đó, gom lại, chúng ta sẽ có một bức
tranh toàn cảnh về người Tầu ở Quảng
Trị.
Về gia đ́nh cụ Lư
Thơ Thành đă tŕnh bày ở trên, trước kia ông cụ
buôn bán ở Cam Lộ, nơi có chợ phiên Cam Lộ khá nổi
tiếng. Tới phiên chợ, người Thượng từ
trong rừng ra, bán măng tre, nấm và thịt khô rừng
như nai, mển (hoẵng).... Họ mua về muối là
chính cùng vài thứ dao rựa sắt thép đồng cần
thiết. Buôn bán với người miền cao, lợi không
ít.
Gia đ́nh ông cụ Lư Thơ
Thành dời về thị xă Quảng Trị khá trễ, sau
khi tôi đă xa quê, nên tôi không biết rơ về họ. Con gái ông
cụ, cô Lư Thị Phụng, h́nh như sau nầy là giáo sư
trường Nguyễn Hoàng, không chắc có phải vậy
không?
Qua câu chuyện vừa nói,
tôi nhớ một câu nói đùa khá vui. Câu đó là: “Trên địa
cầu nầy, chỗ nào có người là có người Tầu.
Có người Tầu th́ có buôn bán. Có buôn bán th́ có đầu
cơ tích trữ.” Có phải đó là sự thực, đúng
hay kỳ thị, thiên vị? Tôi chỉ nói lại, xin đừng
mất ḷng!
Vào những ngày lễ, tôi
không rơ lễ nào, tôi thấy người Tầu treo cờ
trước nhà họ. Phổ biến nhứt bấy giờ
có ba loại cờ: Nhiều nhứt là cờ Nam Triều,
tức là cờ nước Việt
Cờ Tầu được
treo trước nhà. Quanh chợ Quảng Trị có nhiều
cửa hàng Tầu nên cờ cũng được treo nhiều,
trông cũng vui mắt lắm.
Cờ cũng được
treo ở trường Tầu. Trường Tầu ở
trên lầu 1, tại ngôi nhà lầu sau nầy là nhà ông Đốc
Khôi (hay Phôi, bố cô Tuyết và anh Trân, người bị
tật bẩm sinh). Con cái người Tầu học ở
trường Tầu. Con gái th́ mặc jupe xanh (biển), có
giây treo lên vai, áo trắng, giày bata trắng. Con trai cũng áo
trắng, quần “sọt” xanh, giày bata trắng.
Ở nhiều thành phố
miền
Năm 1943 th́ quân Nhựt tới
đóng ở thị xă. Bấy giờ, sau vụ Lư Cầu
Kiều, Nhựt đang xâm lăng Tầu, chiếm Thượng
Hải,
Ông anh cả của tôi, là
Hoàng Thế Thạnh, tức nhà báo Hồng Quang, hồi ấy
mới 16 tuổi, học tiếng Nhựt, làm thông ngôn cho ông
quan hai (trung úy) Nhựt đóng ở ty Kiểm Lâm. Ông Tây Kiểm
Lâm đă bị Nhựt bắt bỏ tù. Mặc dù anh tôi có
nhiều bạn ở thị xă, nhưng lúc ấy, nhiều
người Tầu tỏ thái độ không ưa ông anh tôi
v́ sự quan hệ giữa ông và quân đội Nhựt.
Sau khi Nhựt đầu hàng
Đồng Minh th́ quân Tầu Tưởng tới Quảng
Trị để “tước khi giới” quân Nhựt. Đợt
quân Tàu Ô tới đầu tiên gọi là Tầu Vàng (quần
áo mầu vàng), lính của tướng Lư Hán. Đoàn quân
nầy không làm “nở nang mày mặt” ǵ cho người Tầu
ở quê tôi cả. Cứ nghe bài “quốc ca Dziệt Cộng”
được người dân Quảng Trị sửa lời
như sau th́ biết: “Đoàn quân Tầu Ô sang, sao mà gớm
thế! Đem ghẻ hờm qua lây cho người Việt
Sau 1945, trường Tầu
không c̣n. Không ít bọn trẻ Tầu là bạn học của
tôi, ở trường tiểu học Quảng Trị. Con
gái Tầu th́ học ở trường nữ Quảng Trị,
học tṛ chị Liễu, cô Thạch... Cờ Tầu cũng
không c̣n thấy. Cách ăn mặc theo Tầu của họ
cũng mất dần đi, nhứt là tôi không c̣n thấy bà,
cô nào giữ tục bó chân, như tôi đă từng thấy
có một bà ở hiệu thuốc Vơ Văn Vân nói trên.
Những người Tầu
di cư đến Việt
Phần đông họ đồng
hóa thành người Việt.
Bấy giờ th́ ngoài việc buôn bán, người
Tầu c̣n làm công chức, đi lính, bị động viên,
đi quân dịch... không khác chi người Việt. Đố
ai biết họ là Tầu.
Mới đây, trong cái tham vọng
muốn chiếm nước ta, Tầu Cộng nói rằng
Việt
Nói như vậy là sai!
Xin tŕnh bày tóm tắt
như sau:
1)- Một trăm Việt
(Bách Việt) ở Hoa
2)-
Trong một ngàn năm đô hộ (từ 111 tr Tây lịch
đến 939 sau Tây lịch), người Tầu có di dân
qua Việt
3)- Khi đă định cư
với Lạc Việt, họ là người Việt, chống
lại người Tầu xâm lăng Đại Việt. Ví
dụ: họ Trần (như Trần Thủ Độ), nhà
Lư (như Lư Công Uẩn), nhà Hồ (như Hồ Quí Ly), tuy là
gốc bên Tầu, mới qua nước ta được
mấy đời nhưng triều đại nào cũng chống
lại Tầu, có đem nước Đại Việt mà dâng
cho Tầu đâu.
4)- Những người “Phản
Thanh phục Minh” như tổ tiên các ông Trần Tiễn Thành,
Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản,
Lư Văn Phúc.... qua Việt Nam, làm quan triều Nguyễn, có
ai theo Tầu đâu! Ở miền Nam Việt Nam, những
người như Dương Ngạn Địch, Trần
Thắng Tài, mở mang đất Saicôn, Đồng Nai, không
có ai theo Tầu cả. Ông Mặc Cửu, sau khi b́nh định,
mở mang đất Hà Tiên th́ đem đất ấy mà dâng
cho chúa Nguyễn, nên được chúa Nguyễn phong làm
“Khai quốc Công thần”. Ông ta có đem đất ấy mà
dâng cho Bắc kinh đâu.
5)- Nói xa hơn, người
Tầu ở Thái Lan, Mă Lai và nhất là Tân Gia Ba, chẳng ai
muốn biến các xứ sở nầy thành lănh thổ của
Tầu. Khoảng thập niên 1960, ba nước Mă Lai, Tân
Gia Ba,
6)- Không có ai nh́n vào người
Tầu ở lục địa mà không sợ. Người Đài
Loan tự xưng là Taiwanese chớ không phải là Chinese.
Người ta có thể muốn
giữ lại chút ǵ “cố quốc”, Cộng Sản Tầu
th́ buộc phải “Diện hướng tổ quốc” (4).
Không về được th́ gởi con về học hành bên
Tầu như một người con trai của chú Quánh, như
Phù Trị Hồn, người bạn học lớp ba của
tôi. Nhưng bảo rằng họ muốn biến đất
nước họ đang ở thành nước Tầu th́
tôi không tin điều đó có thật.
7)- Có rất nhiều phố
Tầu ở nhiều thành phố khắp thế giới.
Quảng Trị tôi, các phố chung quanh chợ là phố Tầu.
Ở Huế, Gia Hội là phố Tầu. Ở
8)- Cách sinh hoạt từng
phố Tầu như thế, mục đích chính yếu là để
giúp đỡ nhau sinh sống, buôn bán, làm ăn. Cho nên, những
chỗ có đông người Tầu như Chợ Lớn,
người Tầu thành lập nhiều Bang như Bang Triều
Châu, Bang Phúc Kiến,... Chữ Bang nầy nó không có nghĩa
là Tiểu Bang hay Liên Bang. Theo Vương Hồng Sển trong
“Saigon Năm xưa” th́ chữ Bang nầy có nghĩa là Bang
trợ, giúp đỡ. Người xa xứ muốn xây dựng
một đời sống mới, cần cù, chăm chỉ
làm ăn, người đến trước giúp người
đến sau, “bang trợ” nhau, giống như người
Việt bên xứ Miên (xem Chú Tư Cầu), hay người
Việt ở Cali thương (?!) nhau lắm vậy!!!
Nếu Tầu Cộng xâm lăng
Việt
9)- Tầu Cộng nói rằng
người Việt Nam có nguồn gốc bên Tầu, học
chữ Tầu, có văn hóa Tầu nên nước Việt
Nam là lănh thổ của Tầu.
Nói vậy là sai lắm. Như
đă nói, tổ tiên người Việt thuộc ḍng dơi Lạc
Việt, không phải người Hán. Khi nói “Hán hóa” th́ rơ ràng
người bị hóa, không phải là người Hán. Cụ
thể hơn, khi nói người Việt bị “Hán hóa” th́
rơ ràng người Việt không phải là người Hán, cũng
tương tự như nói Mỹ hóa, Tây hóa vậy. C̣n như
nói người Tầu qua Việt
Người Việt
Người Việt
Trên thế giới, trong diễn
tiến lịch sử của nhân loại, dân tộc nầy
chịu ảnh hưởng văn hóa dân tộc kia, dân tộc
nhỏ chịu ảnh hưởng văn hóa nước lớn
là việc thường. Đâu cứ phải chịu ảnh
hưởng, giao lưu văn hóa th́ chịu sự thống
thuộc, nô lệ của nước lớn.
Trong quan hệ lịch sử
hai dân tộc Việt Hán, Việt là nước nhỏ, Hán
là nước lớn. Nước nhỏ triều cống
nước lớn là việc b́nh thường. Triều cống
là một h́nh thức ngoại giao. Đó không phải là lệ
thuộc, nô lệ, cai trị dân tộc ḿnh theo mệnh lệnh
của Thiên triều. Tầu Cộng phải nhớ vậy!
Nói chung, như tục ngữ nói “Đất
lành chim đậu”. Quảng Trị không giàu, đất đai
không mầu mỡ, sỏi đá th́ nhiều. Người Tầu,
từ mấy đời, đă đến đó làm ăn,
buôn bán, và họ đă “đậu” lại đó. Qua bao nhiêu
thăng trầm, chinh chiến, họ đă cùng người
dân Quảng Trị gánh chung tai ương, thảm họa cũng
như mừng vui khi thấy lá cờ quốc gia bay phất
phới trên cổ thành Quảng Trị. Họ cũng đă
cùng dân chúng Quảng Trị cất to tiếng hát “Cờ
bay, cờ bay...” Và họ đă biến thành “đồng bào”
của người Quảng Trị. Đồng bào có nghĩa
là cùng một bọc (bào), cùng một mẹ mà sinh ra./
hoànglonghải
(1) Chi hồ giả dă: Chi hồ giả
dă: Tiếng Hán cổ đại (văn ngôn) khó nhất là
cách dùng hư từ. “Chi, hồ, giả, dă, yên, tai..” là
những hư từ của tiếng Hán cổ. Nắm
vững cách dùng mấy chữ này th́ phần văn pháp coi
như đă thông, không cần học cú pháp, văn phạm (grammar)
ǵ cả. Các cụ đồ nho ta xưa học chữ Hán
cổ đọc chữ nho có biết “văn phạm” là
cái quái ǵ mà viết vẫn hay. Ấy là nhờ nắm
vững hư từ “chi, hồ, giả, dă...”. Ở Tàu
cũng vậy, trước năm 1990, chẳng có sách nào
về văn phạm: chủ từ, túc từ, tĩnh
từ,
động từ ... câu đơn, câu kép ǵ ráo trọi.
Về sau này bắt chước tây phương. Họ
vẫn viết đúng quy luật, là nhờ chú trọng
cách dùng hư từ. Họ chỉ có sách giảng cách dùng
hư từ. Ta có thể tạm coi đó là các sách về
văn phạm. V́ thế các nhà nho Trung Quốc khi dạy
học cách viết văn cho đúng, thường đọc
hai câu sau khuyên học tṛ.
(Trích lại của
Phạm Thế Định)
“Bác Khổng Ất Kỷ là
người độc nhất mặc áo dài mà lại
đứng trước quày uống rượu. Bác ta
người to cao, mặt tai tái, giữa những nếp
răn thường có vài vết sẹo, lại có một
bộ râu hoa râm lổm xổm, rối như mớ ḅng
bong. Áo tuy là áo dài nhưng vừa bẩn vừa rách, h́nh
như hơn mươi năm nay chưa hề vá mà
cũng chưa hề giặt. Bác ta nói chuyện với ai,
mở miệng là “chi hồ giả dă” làm cho người ta
chẳng hiểu ǵ hết.” (Trích truyện ngắn Khổng Ất Kỷ
của Lỗ Tấn)
(2) Rượu Sica: Người Việt
Xin nói thêm, người Việt bắt chước
người Tầu cũng ưa hút thuốc phiện. Nhà nào
không có bàn đèn thuốc phiện trong nhà không phải là nhà
sang và giàu có. Cũng thấy đây là mối lợi lớn
nên thực dân Pháp cũng độc quyền mua bán thuốc
phiện. Năm 1950, tôi đi theo một người bạn
học đến nhà Đoan (Douanne) ở gần ty Thuế
Vụ, mua thuốc phiện cho bố anh ta, nhà có bàn đèn.
Tôi không rơ người Pháp mua thuốc phiện từ đâu
đem về bán lại.
(3) Tổ tiên Tôn Văn là một trong Bách
Việt bị Hán hóa. Năm 1905, khi cụ Phan Bội Châu
qua Nhựt, gặp thủ tướng Nhựt là Khuyển
Dưỡng Nghi xin giúp đỡ người Việt chống
Pháp, Khuyển có thăm ḍ ư kiến Tôn Văn. Tôn Văn nói
rằng người Việt c̣n lạc hậu, dốt nát,
dân khí không có, không nên giúp. Khuyển nói lại rằng người
Việt
(4) “Diện hướng Tổ
quốc”. Người Tầu Cộng ở hải ngoại
thường được Trung Cộng kêu gọi “diện
hướng tổ quốc”. Năm 1958, khi tôi đi dạy
năm đầu tiên ở Huế, ăn cơm tháng chung nhà
với anh Trần Cẩm Th., một người Tầu quê
ở Hội An. Đêm đêm tôi thấy anh ta ngồi quay mặt
vào tường, sau mới biết là để “diện hướng
tổ quốc”. Mấy năm sau, anh ta trốn vào rừng
theo Việt Cộng. Tầu Cộng th́ “diện hướng
tổ quốc” (Tầu). Việt Cộng cũng “diện hướng
tổ quốc” (Tầu) nữa hay sao?!