Nhà thờ
cụ Phan Chu Trinh
Nguyễn thị Châu Sa, sinh năm 1927
tại Sadec. Thân phụ là Nguyễn Đồng Hợi, thân
mẫu là bà Phan Thị Lan. Cả hai ông bà cùng quê ở
Quảng
V́ thân phụ làm việc ở Nam Vang,
Nguyễn Thị Châu Sa được vào học
trường Sisowath, đậu tú tài 1, chương tŕnh
Pháp.
Năm 1944, thân mẫu qua đời, gia
đ́nh dọn về
Năm 1945, Nam Bộ Kháng Chiến nổ
ra, thân phụ ra chiến khu, Nguyễn Thị Châu Sa ở
lại Saigon hoạt động bí mật cho Việt Minh,
rồi gia nhập đảng Cộng Sản.
Năm 1951, Nguyễn Thị Châu Sa bị
mật thám bắt. Khi bị đưa ra ṭa, luật sư
Nguyễn Hữu Thọ là người đứng ra bào
chữa. Tuy nhiên, bà vẫn bị tù cho đến năm
1954, được tha ra và được trao đổi
cho Việt Minh theo hiệp định Genève 1954.
Sau khi đến Hà Nội, Nguyễn
thị Châu Sa làm bí thư cho bà Nguyễn Thị
Thập, quê ở Định
Tường, đại biểu quốc hội của cái
gọi là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa.
Năm 1960, Mặt Trận Dân Tộc
Giải Phóng Miền Nam Việt Nam được thành
lập, Nguyễn Thị Châu Sa được điều
vào Nam, tham gia tổ chức nầy, ngụy danh với cai
tên mới là Nguyễn Thị B́nh.
Năm 1980, trong trại tù Xuân Lộc, tôi có
hỏi chuyện một người đổ cử nhân
văn chương Pháp, làm thư kư của phái đoàn Việt
Nam Cộng Ḥa, tham dự hội nghị La Celle-Saint-Cloud về bà
Nguyễn Thị B́nh.
Tôi có hai câu ḥi anh ta:
Một là bà B́nh nổi tiếng là nhân
vật đặc biệt, lôi cuốn báo giới Pháp trong
hội nghị nầy. Người bạn tù trả
lời: Không phải định kiến, nhưng thử
tưởng tượng ở Paris thời kỳ đó,
một phụ nữ ăn mặc rất thời trang
Việt Nam, áo dài, tóc búi. Như thế không phải là h́nh
ảnh khiến người Phap chú ư hay sao?
Thứ hai, khi báo chí
Pháp hỏi: Lănh thổ của Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam Việt
Về lập trường chính
trị, bà B́nh theo gió phất cờ. Khi mới chiếm
miền Nam, bà B́nh đi thăm Algerie, yêu cầu thế
giới viện trợ cho Nam Việt Nam một triệu
cái cuốc ư muốn nói rằng miền Nam sẽ tự lực
sinh tồn, không dựa vào Bắc Việt. Hỏi về
thống nhứt, bà B́nh cho rằng giữa hai miền có
nhiều khác biệt về kinh tế và thành phần xă
hội, phải chờ từ 3 đến 5 năm mới
tiến tới thống nhứt được. Vậy mà
chỉ một năm sau, Việt Cộng ép buộc Mặt
Trận Giải phóng và Chính phủ Lâm Thời Cộng Ḥa
miền Nam thống nhứt hai miền. Những
người miền
Riêng bà Nguyễn Thị B́nh làm Bộ
trưởng bộ Giáo Dục.
Trong bộ giáo dục có nhiều tay khoa bảng,
bằng cấp đầy ḿnh. Ở miền Nam Việt
Thế rồi, trong
cuộc suy vi của dân tộc, dậu đổ b́m leo, “giây
b́m b́m Nguyễn Thị B́nh” leo lên tới chức phó chủ
tịch nước.
Cứ nh́n việc
giáo dục hiện nay ở Việt Nam, tiến sĩ, phó
tiến sĩ, bằng thật, bằng giả, tùm lum th́ dù
Nguyện Khuyến có đội mồ sống lại,
cũng không sao viết hết, tả hết những ông
tiến sĩ giấy thời hiện đại.
Bà B́nh có hai
người em trai, một là Nguyển Đồng Hà, hai là
Nguyễn Đồng Hồ (sửa lại là Nguyễn
Đông Hồ - bỏ dấu huyền chữ Đồng,
sợ người ta tưởng lầm với cái vật
coi giờ). Ngoài ra, ai nữa th́ tôi không được
biết.
Khoảng 1980,
Nguyễn Đồng Hà làm giám đốc một xí
nghiệp ở miền Trung, c̣n Nguyễn Đông Hồ làm
phó giám đốc một xí nghiệp ở Saigon, đang
tranh chức giám đốc với các ông đảng viên già.
Sau vụ nạn kiều, vợ
Nguyễn Đông Hồ, quốc tịch Pháp, bỏ chồng,
bồng con theo Tây. Anh ta kể lại, hồi nhỏ,
mẹ chết, ở với chị và bà con ở Đakao,
ngày ngày đi học, chẳng bao giờ vào thăm lăng
cụ Phan Chu Trinh trên đường Phạm Đăng
Hưng Đakao. Năm 1955, Nguyễn Thị B́nh cho
người đưa các em ra Bắc tập kết, theo
Việt Cộng. Hai anh em Hà và Hồ đều tốt
nghiệp kỹ sư ở Liên Xô.
Hồi ấy, làm
bộ trưởng giáo dục, Nguyễn Thị B́nh
hết sức lo cho em, nhứt là cố giành cho
được chức giám đốc cho Nguyễn Đông
Hồ. Nguyễn Thị B́nh đưa Nguyễn Doăn
Quới từ Hà Nội vào làm giám đốc xí nghiệp,
đập tan tác các đảng viên già mang bệnh công
thần, kẻ th́ bị chuyển công tác, người
nghỉ hưu non. Xong Quới về bộ giữ một
chức vụ trưởng cao hơn, coi như
được thưởng công, giao chức giám
đốc lại cho Nguyễn Đông Hà. Vậy là,
việc nhà việc nước, bà B́nh coi như vẹn
cả hai đường.
Sau khi làm phó chủ
tịch nước, với chức trong đảng là
ủy viên trung ương, lại là phó chủ tịch
nước, bà B́nh có rất nhiều quà, như ngôi nhà sau đây:
Ngôi biệt
thự màu trắng là của nguyên Phó chủ tịch
nước Nguyễn thị B́nh,
toạ lac trên con đường chạy dọc bờ
biển Mỹ Khê, Đà Nẵng , ngôi biệt
thự này là “quà tặng “của thành phố Đà Nẵng,
hay nói chính xá hơn là quà tặng của Bí thư thành
uỷ Nguyễn Bá Thanh
biếu không cho bà B́nh theo kiểu “ch́a khoá trao tay” nghĩa là
bà B́nh chẳng cần bỏ tiền của, chăm sóc xây
dựng ǵ cả. Dĩ nhiên, hiện nay bà B́nh không ở
trong ngôi biệt thự này, nhưng bà cho ngoại kiều
thuê với giá 2.000 USD/tháng, bởi v́ bà cũng như
tất cả những quan chức ở Hà nội có không
biết bao nhiêu là nhà theo kiểu nầy. (lời ghi chú trích lại
VNExodus)
Theo Cộng Sản như thế nầy th́ “quá
cha” tư bản vạn lần. Không hiểu mấy ông quan
to chức lớn chế độ miền
Vua Bảo Đại, ngoài cung điện ở
Huế, có Bạch Dinh ở ĐàLạt, ở Vũng
Tầu, nhưng đó là công ốc, không phải tư gia.
C̣n làm vua th́ được ở, bị truất phế
th́ nhà cũng mất luôn, trả lại cho chính phủ
mới. Tổng thống Thiệu có ngôi nhà mát đâu ở
trên xa lộ Biên Ḥa, báo chí đă bàn ra tán vào cũng lắm.
C̣n ở quê ông, làng Tri Thủy, Phan Rang, căn nhà cũ
của cha mẹ cũng y vậy, không xây ngôi nhà mới nào.
Chắc ổng sợ “miệng tiếng.”
Ông Ngô Đ́nh Diêm, khi làm tổng thống, cũng
không có nhà. Ở Huế, trong khuôn viên nhà cũ, ông Cẩn cho
xây một ngôi nhà mới, để đủ chỗ cho
đại gia đ́nh họ Ngô mỗi khi sum họp vào
dịp tết, nhưng căn nhà cũ, do ông Ngô Đ́nh
Khả dựng nên, vẫn giữ y. Hồi đó, nghe nói
ông Cẩn định dùng Cồn Hến làm nhà nghĩ
hưu cho ông Diệm, phản ứng của dân chúng làm cho
ông Cẩn cũng ngại, không dám tiến hành. Sau nầy,
việc xây nhà nghỉ hưu cho ông Diệm ở Mai Hoa thôn,
B́nh Quới, cũng chỉ mới bàn thảo, chưa
tiến hành th́ ông Diệm qua đời.
Các tổng thống Mỹ, ông nào cũng có nhà, trước
khi làm tổng thống. Bây giờ những ngôi nhà ấy
vẫn c̣n được giữ làm lưu niệm. Nh́n
chung, các ngôi nhà ấy đều b́nh thường.
Ví dụ, ngôi nhà của tổng thống
đầu tiên của nước Mỹ th́ một
đại tá, chức vụ ông
trước khi lănh đạo cách mạng Mỹ,
cũng có thể có một ngôi nhà như thế, không
cần phải làm tổng thống mới có nhà cao cửa
rộng. Ngôi nhà sau đây là của tổng thống
Ngôi
nhà sau đây là của ông
Một
di dân Việt Nam đến sinh sống ở Mỹ cỡ
vài chục năm, thấy một căn nhà như h́nh sau đây,
cũng chê, không muốn ở. Nhưng nó chính là nhà của ông
John Adams, tổng thống thứ nh́ của nước
Mỹ.
Theo ngươờ ta biết, bà Nguyễn
Thị B́nh có khoảng một chục căn nhà như
căn nhà của bà nói ở trên. Cứ mỗi ngôi nhà
như thế, cho thuê 2 ngàn đô la. Nhân lên cho một
chục, mỗi tháng bà có khoảng hai chục ngàn đô,
mội năm có 240 ngàn đô. Hèn chi nhiều người
ưa theo Việt Cộng cũng dễ hiểu thôi.
C̣n như những người nghèo ở
trong những cái cḥi lá, gầm cầu, có liên hệ ǵ
tới phó chủ tịch nước hay không th́ cũng khó
biết được. Công lao vào sinh ra tử mấy
chục năm để hưởng quyền lợi
như thế, có thể theo bà B́nh, cũng là ṣng phẳng.
C̣n như những ai “Xương trắng Truờng Sơn”
như Xuân Vũ nói, không ai biết chết ngày giờ nào,
nơi nào trên núi th́ có ai biết hay không, có liên hệ
đến ai hay không, cũng không cần thiết. Dựng
chung cho những người chết đó một đài
liệt sĩ, ghi lên đó mấy chữ “Tổ Quôc Ghi
Công” là đủ rồi. C̣n nhu không ai thờ cúng, không ai
kỵ giỗ th́… cũng là xong, giao mấy bà cụ già mất
con tự lo lấy.
Bà Nguyễn Thị B́nh bây giờ giàu có,
sở hữu nhiều ngôi nhà sang trọng.
Với những người cai trị đất
nước Việt
Lăng cụ Phan Chu Trinh ở Đakao
được nâng lên hàng di tích lịch sử cấp
quốc gia.
Nhưng có lẽ cụ Phan không vui khi
thấy con cháu cụ đi sai con đường cách
mạng do cụ chủ trương. Và chắc hẵn
cụ sẽ đau ḷng khi nghe ai mai mỉa rằng:
“Cụ có khôn thiêng cười một
tiếng
Rằng nay con cháu đă giàu sang.”
hoànglonghải
Cụ Phan Châu Trinh sinh năm
1872, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng
Nam, đổ cử
nhân năm 1900, năm 1901,
đỗ Phó bảng, đồng khoa Nguyễn Sinh Sắc. (Xem chuyện bên lề lịch sử,
cùng tác giả) Năm 1902,
cụ vào học Trường
Hậu bổ, sau ra làm Thừa biện Bộ
Lễ. Ít lâu sau cụ bỏ quan,
hoạt động cứu nước. Cụ cùng các đồng
chí đi
khắp Việt
Tháng 7-1907, Phan Châu Trinh ra Hà Nội
tham gia giảng dạy ở Đông Kinh nghĩa thục.
Năm 1908, vụ Hà thành đầu
độc ở Hà Nội và phong trào
chống thuế của nông dân Trung Kỳ nổ ra
và bị thực dân Pháp đàn áp, cụ bị bắt đày ra Côn
Đảo. Đến năm 1910, nhờ có Hội
Nhân quyền Pháp can thiệp, cụ được trả lại tự do. Nhân dịp có nghị định ngày 31 tháng 10
năm 1908 của chính
phủ Pháp về việc lập một nhóm
giảng dạy tiếng
Hán tại Pháp, năm 1911, chính quyền Đông Dương cử
một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, có
cả Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật.
Sang Pháp, ông ở nhà luật sư Phan Văn Trường,
mở một hiệu sửa ảnh, sống thanh bạch. Cụ t́m cách liên hệ với những
người trong Liên minh
Nhân quyền và Đảng
Xă hội Pháp. Năm 1914, cụ lại bị bắt giam v́ t́nh nghi có liên
hệ với nước Đức.
Nhờ sự can thiệp của Đảng
Xă hội Pháp, nên cụ mới
được thả ra.
Năm 1922
khi vua Khải Định sang Pháp
dự đấu xảo Marseille,
cụ viết một bức
thư dài buộc tội Khải Định 7 điều
và khuyên vua về nước gấp, đừng làm nhục
quốc thể (Thư
Thất Điều).
Năm 1925, cụ về Sài G̣n
tiếp tục hoạt động theo xu hướng
cải lương, kêu gọi dân quyền, dân sinh, dân khí.
Cụ mất ngày 24 tháng 3
năm 1926
tại Sài G̣n. Sau khi mất, tinh thần yêu nước
của cụ vẫn cổ vũ phong
trào trong nước, đặc biệt là trong thanh niên,
học sinh đă dấy lên phong trào đấu tranh đ̣i
thả Phan Bội Châu và để tang Phan Châu Trinh. Lễ
tang cụ được nhân dân
tổ chức rất trọng thể; bất chấp
sự ngăn cản của thực dân, cả nước
dấy lên phong trào làm lễ truy điệu Phan Châu Trinh, là
một sự kiện chính trị nổi bật lúc bấy
giờ .