TRẦN THẾ NHÂN
NGÀY
LONG TRỜI
ĐÊM
LỞ ĐẤT
Tiểu thuyết
Tập 2
Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam
09-2010
CHƯƠNG
25
MẸ CON NHÀ HỌ MAI ĂN THỊT
NHỮNG
CON G̀, XƠI NHỮNG MÓN G̀?
Lời
mẹ nói quả không lầm, cũng chẳng sai.
Để
có thêm thịt bồi bổ cho mấy cơ thể đă
giơ xương ḷi da, chúng con đào trùn, mổ ruột, rửa sạch
nấu cháo. Thật kỳ lạ, ăn món này vào, cơn
sốt hạ xuống, người thấy khoẻ
hẳn.
Lại
c̣n một nguồn thực phẩm nữa bồi bổ
cơ thể cũng rất tốt, ấy là bọn cóc
nhái. Hồi ấy sao mà nhiều cóc nhái đến thế!
Chẳng phải lùng t́m đâu xa, ngay trong lều, xó
xỉnh, vại nước… Nhiều
khi chỉ cần nhấc ḥn đá, lôi cái ḥm đựng áo
quần giẻ rách ra… là đă có mấy chú ẩn
nấp trong đó rồi. Cứ mỗi hôm mưa là
Trời lại cung cấp, phân phối, bổ sung cho các
nguồn thức ăn này: cóc
nhảy ra sân, ếch nhái từ dưới ruộng ḅ lên…
Hai chị em tha hồ mà bắt.
Nhưng
bắt được bọn này cũng không dễ đâu,
thầy ạ. Nhiều con nhanh
lắm, ḿnh vồ mấy lần cũng trượt; nó
đă vọt lên trước,
ḿnh chộp hụt, thế là ngă ngửa ra giữa sân. Ôm
bụng thắt ruột mà cười!
Có cái
hố tăng-xê bác Lương đào để làm hầm
tránh máy bay Pháp mấy năm trước, chẳng lấp
lại nay vẫn c̣n đó. Cứ mỗi lần sau cơn
mưa lại lỏng bỏng nước… Một hôm
ngồi trên miệng hố con thấy có một con ếch
đang thô lố mắt nh́n ḿnh dưới nước. Thịt
ếch ngon hơn thịt cóc, thịt nhái; v́ thế con
mới hạ quyết tâm, loay
hoay t́m cách bắt cho kỳ được Chú của Ông
Trời này…
Thế
là, vô ư sẩy chân, tụt ngă xuống. Nước trong
hố lút đến mang tai; con cứ ngoi lên hụp
xuống bám víu hai bên, định trèo
lên nhưng miệng hố th́ rộng, đất hai bên
sụt lở… Càng ngoi lên càng lún ch́m, sặc sụa mấy
ngụm nước…
Thật
may cho con! Nghe tiếng rơi đánh bùm trong nhà mẹ đă
ngờ ngợ. Lại thêm tiếng đất sụt,
nước quẫy b́ bơm, mẹ càng sinh nghi. Thế là bà vội vàng ra ngay,
chỉ cần chậm mười lăm phút nữa là con bé Lệ Uyên của thầy đă
thành ma rồi!
Lại
nói chuyện làm thịt cóc, thịt Cậu Ông Trời…
Chị Tâm c̣n gọi ếch là Chú Ông Trời. Mẹ gọi
bọn nhái, chăo chuộc, ểnh ương là cháu bên
ngoại, đằng nội của Ông Trời… gọi
Trời bằng bác, bằng dượng… Bác Lương bày
cho rất kỹ lưỡng. Bác dặn đi dặn
lại là chặt đầu, lột da vứt đi,
bỏ hết tim gan mật phổi, đừng tiếc cái ǵ hết, chỉ lấy
bốn cái chân bóp muối, rửa sạch…
Bác
đe rằng, chỉ cần ăn một tí gan cóc, dính
một chút mật cóc vào là nổ bụng ra chết
tươi ngay!
C̣n
một món ăn rất ngon nữa là chuột.
Thịt
chuột ngon chẳng kém ǵ thịt gà, thịt chó. Chuyện
là thế này thầy ạ. Có một hôm trời mưa, bác
Lương đi thăm ruộng về,
ghé vào lều cho chúng con mấy chú chuột đồng. Bác
bảo, mổ bụng vứt hết gan ruột của
chuột đi; nếu sợ không dám nướng ăn th́
om với măng hoặc khế cũng được…
Thế nhưng, ngon nhất vẫn
là nướng!
Chúng con
hỏi, thưa bác, thịt chuột trong nhà có ăn
được không? Bác cười bảo, chắc cũng
được thôi, có điều khi làm thịt và nấu
phải cẩn thận hơn, bởi v́ bọn này sống
gần người lây bẩn,
tạp ăn, lắm khi ăn cả xác chết!
Ngay
sát bên chái nhà, cái lều ḿnh ở có một cây cau khô,
chết đă từ lâu rồi mà sao nó vẫn không
đổ, dù thân xác đă lỗ chỗ ruỗng mục? Trên đầu ngọn
cau, chen vào giữa mấy cành khô lá héo đó có một ổ
chuột. Đêm tối, nằm trong lều cứ nghe chúng kêu chít chít… Khi trời mưa, ngồi
trong lều nh́n ra thấy có con leo lên, có con chạy
xuống trông rất vui mắt. Chị Tâm mới nghĩ ra
cách để tóm bắt bọn
chuột này.
Chị
lục t́m mấy cái quần nâu của mẹ, cái nào
cũng rách cả, chọn được một cái tuy có
vá vài miếng nhưng không có lỗ thủng… Tốt quá
rồi! Chị lấy lạt buộc sít hai ống
quần lại đem úp trùm cả cái quần vào
đầu ngọn cây cau… Chị bảo con đứng
dưới cầm cái que dài
chọc chọc, khua khua… Lũ chuột cùng
đường bí lối, chạy lên chạy
xuống đều không thoát, phải chui vào hai ống
quần…
Thiên la
địa vơng! Lưới trời khôn thoát! Trên
dưới đều buộc chặt! Thế là chúng con
bắt tay vào, nghiến răng, bóp chết từng con
một. Kể lại cho thầy nghe chuyện này bây
giờ con vẫn thấy rùng ḿnh. Chẳng hiểu v́ sao mà
lúc bấy giờ chúng con lại ác thế!
Hay là, nói
như mẹ, tại v́ người ta muốn ḿnh phải
chết nên ḿnh quyết sống cho kỳ được
bằng mọi cách, mọi giá đến nỗi chẳng
c̣n sợ chết; và ham sống đến độ
sẵn sàng ăn tươi nuốt
sống tất cả những thứ ǵ đến
miệng ḿnh!
Có ai
đời, cào cào, châu chấu, muỗm… bỏ vào nồi,
đậy vung, đốt
lửa rơm cháy… chúng nhảy rào rào một lúc rồi nghe
im tiếng; vậy là chín tới, con gái thầy, hai
chị em bốc lấy, thổi phù phù trên ḷng bàn tay,
bỏ vào mồm nhai gau gáu!
Có lần
chúng con c̣n ăn cả dế mèn - “dế mèn phiêu lưu kư”
ấy thầy ạ. Cũng ngon!
Khoái
nhất vẫn là hôm nào chộp được ếch,
nhái, cá rô hay cà cuống.
Thôi th́, c̣n phải nói ǵ nữa, hôm đó đời
tươi vui như hoa hồng thắm!
Cũng
may là mẹ con nhà họ Mai bị Đội ghét nhưng
Trời Phật vẫn c̣n
thương. Dẫu rằng Đội và Quân Chủ
lực có trăm tay, ngàn mắt, xương sắt da
đồng… cũng chỉ có thể tóm bắt
được người vô
tội, chứ không giết hết muôn loài chim chóc, côn trùng,
thảo mộc… Cho nên, vận may vẫn c̣n
đến với ḿnh, mở ra con đường
sống, giúp cho ḿnh thoát… chết!
Mà ngay
cả con người nữa, có những người không
bị ma lôi quỷ ám, vẫn c̣n là người… th́
đối với ḿnh, họ vẫn cứ thương!
CHƯƠNG
26
TRỞ LẠI CHUYỆN… CON CHUỘT
Trở
lại chuyện… con chuột!
Thầy
ơi! Sau này ở Sài G̣n, có một dạo nhà con nhiều
chuột quá. Đêm tới chúng cứ lục đục
trên chạn bát đũa, rúc rích dưới
sàn nhà, có con chạy vào cả giường nằm… không sao
nhắm mắt nổi. Anh
Thái Minh, chồng con, mới nhờ người ta mua
hộ cho một cái lồng bẫy chuột làm
bằng lưới sắt đan, bán ở các cửa hàng ngoài chợ Bà Chiểu.
Một
hôm, sáng dậy đă thấy con chuột bị sập
bẫy, sa lưới nằm
trong lồng. Chồng con bảo, để anh lấy phích
nước sôi đổ xối cho nó chết rồi
bỏ bịch ni lông đem quẳng ra thùng rác ngoài đường… Con nói, anh Minh, bây
giờ anh mắc công chuyện ǵ th́ cứ đi đi, để em xử lư giải
quyết vụ việc này cho.
C̣n
lại một ḿnh Lệ Uyên với con chuột ở trong
bẫy đặt trên nền
nhà. Con nh́n nó! Ồ con chuột đang độ
tuổi thanh niên múp míp, mượt mà và ngoan ngoăn biết
điều làm sao! Nó đang nh́n con bằng ánh mắt
thăm ḍ ư tứ. Chít! Chít! Nó khẽ kêu. Chết! Chết! Mày có sợ chết không,
hở chuột? Con chăm chú theo dơi vẻ tinh khôn mà
dại dột của nó. Cô nh́n cái ǵ? Th́ tôi cũng mắt
mũi, tay chân… có khác ǵ con người đâu! C̣n nhớ
năm 1955 không? Có lẽ nào cô lại quên cái tṛ bó thắt
quần, giăng bẫy, tóm bắt bọn này? Có lẽ nào
cô lại quên được món nướng, chuột om
với măng và khế… cả nhà xúm nhau lại đánh
chén? Tụi này đă đóng góp vào khẩu phần thức
ăn nuôi sống các người… lại c̣n không nhớ sao?
Tôi
kể thêm cho cô nghe câu chuyện nữa. Muốn bí mật
th́ cứ giữ kín,
c̣n lộ bem ra cho bốn bể anh em biết th́… cũng
chẳng sao. Ở Thanh Hóa có hai ông bác sĩ Đỗ Vân,
Đặng Ngọc Khôi. Chỉ
nghe tên thôi à? Họ là bạn của bố Mai Duy Vỹ
đấy! Năm 1955. Cải cách Ruộng
đất. Mấy vị thầy thuốc này bị Lê Xuân
Tái, thằng mọt gian hung
thần kư lệnh bắt giam nhốt vào tù.
Ở
trong tù, họ đói khát đến nỗi nhiều khi có
thể vơ bốc mọi thứ quanh ḿnh bỏ vào
mồm những cái mà họ tưởng là có thể ăn
được!
Tinh mơ
gà mới gáy, có hôm đoàn tù đă phải lên
đường giải đi
sớm.
Mặt
trời c̣n mê mệt ngủ trong chăn mây.
Phương
Đông biến dịch màu trắng đang chuyển
dần sang màu hồng.
Và ḱa!
Mặt trời đă thức dậy mỉm cười,
bắn hàng loạt mũi tên vàng chân lư vào màn đêm nô
lệ đen tối dưới ngục tù thế gian, chói lọi xuyên qua những trái
tim hồng. Đoàn tù ngẩng đầu ngưỡng
vọng, sững sờ. Đỗ Vân và Đặng
Ngọc Khôi đang bước hàng
hai bên nhau bỗng dừng lại. Bàn chân trần khô nẻ,
buốt giá của họ
vừa giẫm phải cái ǵ mềm mềm trơn trơn?
Ồ! Mấy nhánh hành tươi, củ hành tṛn
nằm rơi văi giữa đường. Của ai
nhỉ? Chắc là mấy bà nông dân sáng sớm mai gánh rau
đưa hành ra chợ bán, vô ư
làm rơi đánh rớt… Ôi cái mùi gia vị quen thuộc kích
thích đến nỗi con
người ta chưa ǵ nước bọt đă ứa
từ chân răng, nước
miếng đă tuôn ra nơi đầu lưỡi. Khỏi
cần phải nói, hai vị bác sĩ vội cúi
xuống vơ bốc, phù phù thổi sơ qua rồi
bỏ mồm nhai nghiến ngấu. Ái chà chà ngon! Ngon quá!
Nhai tới đâu da thịt rưng
rưng, mắt ngời sáng lên tới đó!
Chưa
hết!
Chuyện
c̣n tiếp… Đoàn tù đă chuyển chỗ tới nơi
ngục thất mới.
Những
trận đói cơn khát bây giờ c̣n thống khổ ác
liệt hơn trước.
Đă
vậy, nhà giam lại chật chội, u tối, cực
h́nh gấp mấy lần nơi cũ!
Nhiều đêm họ thức trắng…
Canh một, canh hai, canh ba, canh tư… Tới canh năm,
gần sáng rồi họ chợt thiếp đi. Đỗ
Vân đưa cánh tay rời ră
quờ quạng sang bên cạnh ḿnh. Ơ, cái ǵ thế này
nhỉ? Mềm mềm, ấm ấm. Lúc nhúc, lổn
nhổn… Một, hai, ba, bốn…Thịt da ǵ như thịt
da con ḿnh? Nhưng đây là xó xỉnh hôi thối
ngục tù chứ có phải căn nhà thoáng đăng êm ấm
gia đ́nh lâu nay đâu mà c̣n
mơ với tưởng!
Vừa
lúc, Đặng Ngọc Khôi mới mở mắt dậy
cũng đưa tay sang quờ
đụng phải…
Chít! Chít!
Cái tiếng ǵ phát ra bên bức tường kia, lại con ǵ vừa rùng rùng ḅ trên cột xà ngang
ngay trên đầu họ?
Đỗ
Vân thảng thốt kêu: Ô! Chú chích!
Đặng
Ngọc Khôi cũng thều thào: Ồ! Con chuột!
Một
ổ chuột nhắt! Chính xác một ổ chuột
vừa mới sinh!
Mắt
họ cùng sáng lên. Dẫu c̣n phủ mờ bóng tối
cả hai đă cảm
nhận ra được cái mượt mà múp míp, cái
hồng hào hon hỏn của đĩa thịt tươi
ngon đến phải tứa nước bọt ra mà
nuốt đánh… ực! Trong tù chẳng có bếp núc,
lấy đâu ra than củi để đun nấu
nướng xào. Thôi th́… Cơn đói đang cồn cào dâng,
thức ăn trời cho lại
bày sẵn, c̣n ḷng nào nữa mà khách khí từ chối!
Thế
là, tự nhiên như không, bọ bốc từng con bỏ
vào mồm nhai gau gáu.
Cái vị
ngọt của máu, cái mùi thơm của thịt chuột
sữa, chuột nhi đồng làm răng lưỡi
họ tê mê khoan khoái, tứ chi rung động,
toàn thân ngây ngất. Ôi! Bữa tiệc ngon lành nhất
trần đời! Dẫu có là vua chúa ngàn năm
xưa, các quan chức đại gia thời bây giờ cũng không thể nào
được nếm thử, xơi ngon một
đại tiệc ngon lành đến như vậy!
Ăn xong
rồi, cả hai vị thầy thuốc chẳng kiếm
đâu ra được ngụm nước để súc
miệng, cái tăm để xỉa răng. Thôi đành
vậy, biết làm sao? Họ tà tà nằm xuống, thư
thả duỗi chân, đầu óc chẳng muốn nghĩ
ǵ nữa. Vậy mà, mắt đă nhắm nghiền lại
rồi, làm sao lệ nóng từ đâu trong con ngươi
vẫn ứa ra, chảy ào tràn hai
hố mắt!
Thế
nào, Lệ Uyên, cô đă nghe rơ chưa?
Chuyện
là chuyện của loài chuột chúng tôi kể, cho dù đă
45 năm qua, hơn 80 đời lưu truyền lại
vẫn là chuyện có thật, chuyện trung thực; không
phải thứ chuyện lếu láo bịa đặt, vu cáo, dựng đứng của loài
người các ngươi đâu!
Tôi
nhắc lại để cho cô nhớ và đừng quên:
Chính tụi này đă đóng góp vào khẩu phần thức
ăn nuôi sống các người!
À, hoá ra
bây giờ các người lại đền ơn chúng tôi
bằng cách trả oán như
vậy đó?
Cái
giống người các ngươi toàn là như thế
cả!
Hử?
Hử!
Thầy
ơi!
Tự
nhiên nước mắt con trào ra. Lồng ngực đau
nhói.
Cầm
cái lồng bẫy bước ra ngoài đường trông
trước nh́n sau, chờ
tới khi chẳng c̣n ai chú ư đến ḿnh, con mới
nhẹ nhàng mở tấm lưới cửa cho con
chuột thoát ra. Sao? C̣n ngần ngừ ǵ nữa! Chuột
ơi! Chạy mau đi!
Men theo ŕa
đường nó chạy thẳng một lèo, rồi
đột ngột rẽ ngang, phóc lên hè phố… Biến!
Họ
Mai nhà ḿnh liệu c̣n hay mất, hở thầy?
Mai
sau, năm tháng trôi đi, con cháu dù có đời đời
nhớ ơn ai nữa, thầy ơi, cũng đừng
quên ơn mấy con… chuột!
CHƯƠNG
27
VỀ THĂM LẠI MÁI NHÀ XƯA
Có một
lần, thầy ơi… Lệ Uyên nức nở kêu lên, hai
chị em con về làng…
Chẳng
hiểu sao chúng con lại thờ thẫn đi ngay vào cái
lối đàng sau nhà ḿnh. Trời
nắng như đổ lửa mà không đội nón,
giơ đầu trần, hai đứa mới kéo
nhau vào đứng núp dưới bụi tre. Từ chỗ này nh́n vào thấy vườn
nhà ḿnh đă phân chia làm ba, cuốc xới nham nhở, cây cối chặt trụi… Ngôi nhà
trên đă ngăn đôi bằng hàng cọc gỗ, gác
nối mấy cây luồng chạy từ cửa chính ra
tới ngoài sân… để chia
ranh giới. Hai mái ngói trước sau chẳng hiểu sao
bị bóc giở gần hết, lợp tranh rạ vào. Cái
nhà bếp c̣n rách nát thảm
hại hơn, mái thủng trống ḷi cả rui mè ra…
Thầy có biết ai ở nhà bếp này không? Chị
Tít. Chị Tít không có chồng, chẳng có con, một thân một ḿnh sống trong đó.
Thầy c̣n
nhớ chị Tít không? Chị thấp người,
chột mắt, chân ṿng kiềng, gù lưng; khi bước
đi hai tay vắt vẻo đu đưa như bị gẫy gập… Mẹ
bảo, một lần trông thấy chị ấy ngồi
trên ghế chủ tịch đoàn ở ngoài
đấu trường. Mẹ không ghét bỏ ǵ chị
Tít; bà cho rằng v́ bị mấy ông Đội ép buộc
mà chị ấy phải tố bậy nhà ḿnh thôi. Sau này, có lần gặp mẹ ngoài chợ,
chị Tít nhắc lại cái chuyện hồi đi ở
cho ông bà, phải ăn chung với hai con chó để đến
nỗi chó nó đớp vào mặt là chuyện không có
thật. Họ dựng chuyện lên rồi ép buộc chị
phải nói thế; không nói th́ lại bị quy kết làm
cái đuôi cho địa chủ, làm tay sai của bọn
phản động; có nói vậy
th́ họ mới kết nạp cho vào Đảng…
Nhắc
lại chuyện ngày xưa, chị bảo nếu không
được bà nội cho ăn, cho ngủ dưới nhà bếp
th́… Tít đă thành ma từ lâu rồi.
Đứng
trước nhà bếp chị Tít giơ tay vẫy vẫy.
Chúng con thấy làm lạ không
hiểu chị ấy muốn ǵ?
Hay là ta vào đi? Con nói với chị Tâm. Chị Tâm trợn
mắt lên, bảo mày muốn
chết hả? Liệu hồn! Mày không sợ người
ta vu oan giá họa cho à? Con bảo, chị Tâm ơi, em
nhớ nhà ta quá, để cho em vào xem lại cái giếng và
cây khế ở ngay sau nhà bếp ḱa! Chị Tâm
gắt lên, nhà ta làm ǵ c̣n nữa, mày điên à, nhà của mấy người bần cố
nông… Mặc kệ! Con chứ chui qua bụi gai, rách toạc
cả mặt, chân đạp lên mấy cây mây… thế là
bước vô được trong vườn. Con vào nhà
bếp. Chị Tít vẫn đứng trước cửa.
Con nh́n chị. Chị cười. Chị hỏi con có
ăn khoai không? Con lắc đầu. Chị bước
lại sát gần con. Con sợ quá, lùi lại. Chị ghé
mồm sát vào tai con, th́ thào: “Có
lặt được mấy ḅ gạo không?” Con ngơ ngác
nh́n chị : “Gạo nào?” Chị trợn tṛn con mắt
độc nhăn lên: “Gạo của tôi, một ḅ, mấy bà
kia, hai ḅ… lại c̣n một mo cau khoai
nữa!” Con lắc đầu bảo, không biết, không
biết…
Khi về
lại túp lều ngoài đồng con kể lại
chuyện cho mẹ nghe, mẹ
ngẩn người ra, rồi sụt sịt khóc.
Mấy
hôm mới ra ở lều ngoài đồng đúng là
chẳng c̣n hạt gạo nào, mẹ nói, đêm nằm
quằn quại không sao ngủ được. Gần sáng,
vừa mới chợp mắt, nghe có cái ǵ rơi đánh
bịch, chắc là ai vừa ném
đất quăng đá vào sau lều? Sợ quá, mẹ
nằm im thin thít. Sáng dậy, ḅ lết ra coi thử, th́
thấy sau tấm liếp trên đống cỏ có một
gói bọc giẻ rách, buộc chằng thêm mấy sợi
lạt… Mẹ lấy làm lạ, thử mở ra xem, hoá ra
là gạo. Trời đất ơi! Của ai vậy?
Trời Phật xót thương cho mẹ con sống, sai ai đem
tới đây thế này? Mẹ cố đoán ra xem ai là
người to gan lớn mật dám làm cái việc
động trời ấy? Ai? Ai? Hoá ra là con Tít! Chắc
hương hồn bà nội hiện lên ám ảnh,
lương tâm cắn rứt không chịu nổi, nó
mới đổi mặt lại làm người!
Từ
chị Tít, mẹ đoán lần đoán ṃ sang mấy
người nữa: ông Bơ, bà
Tạu, chị Te… những người có dạo ở nhà
ta. Phải rồi, chỉ mấy người đó thôi.
Rồi mẹ ôm mặt khóc.
Trở
lại chuyện chị Tít…
Vào nhà
chị, chỉ thấy cái chơng tre xiêu vẹo, mấy cái
nồi, vại… và mớ quần áo rách treo trên vách vừa
chua vừa hôi. Chị bảo, lúc chia quả thực,
vợ chồng Đông giành hết mọi thứ chỉ
để cho chị một cái niêu đồng nhỏ.
Chị hiện đang đói, c̣n đói hơn hồi
ở với ông bà, lại c̣n bị đau cái chi ở trong
bụng, không có thuốc uống, mỗi ngày bụng cứ
thấy to dần lên. Có người độc miệng phao lên rằng ông
Đội làm chị có chửa… nhưng đâu phải, bụng
chị đă to đến cả nửa năm nay rồi,
chắc là sắp chết thôi… Chị
khóc!
Bước
ra vườn, một ḿnh con đứng dưới cây
khế nh́n lên. Thầy ơi! Con nhớ bà nội quá!
Mới ngày nào năm trước đây, bà cháu c̣n cầm
sào chọc hái mấy quả khế trĩu trịt trên cành
kia! Bà bảo giống khế ngọt này xin từ quê
mẹ con ở làng B́nh Lâm bên Hà Trung. Bà c̣n kể chuyện
con Chim Thần ngày xưa bay đến nói với hai anh em
nhà nọ. Nó kêu: Ăn quả khế, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà
đựng… Nhà nọ ngày xưa có hai anh em, ông anh th́ tham và ác, người em th́ hiền
lành, biết nhường nhịn… Kẻ tham lam
độc ác th́ cuối cùng phải chết ch́m ngoài
biển khơi. C̣n bây giờ th́ sao? Lời bà kể có
đúng nữa không, bà ơi!
Người hiền lành nhân đức th́ bị vu oan,
giết hại; kẻ gian manh tàn ác th́ lại
được Đội ban thưởng, cho không mọi thứ. Có phải vậy không?
Bước
tới bên cái giếng con cúi đầu xuống nh́n.
Mặt nước đục
hôi, đầy những lá khô, vỏ mía và cung quăng.
Mới ngày nào đây chị Tâm thả cái gàu làm
bằng tôn xuống (c̣n một gàu nữa làm bằng mo cau,
con thích dùng gàu này hơn!) kéo dây thừng múc nước lên
đổ vào chậu thau đồng có pha bồ kết…
Mẹ cấm con không được thả gàu xuống
giếng múc nước, con c̣n nhỏ mà, sợ có khi
lộn cổ xuống đó… Mẹ xối nước lên
người, ḱ ghét mạnh tay làm
da thịt con ửng đỏ, đến nỗi con
phải nhăn nhó; rồi mẹ gội đầu,
chải tóc cho con…
“Đứa
nào đứng ngoài giếng đấy?”
Tiếng
quát to sau lưng làm con giật nẩy ḿnh. Quay lại nh́n con thấy vợ chồng chú
Đông.
“Con
gái thằng Vỹ hả? Mày đến đây làm ǵ?”
Chú
Đông bặm môi, hằm hằm nh́n con, tay cầm
thuổng và bó rau lang. Con nh́n chú chẳng nói ǵ. Thím
bước tới, xỉa thẳng ngón tay cái vào mặt,
nói như hét; nước bọt bắn cả vào mặt mũi con…
“Mày
vừa bỏ cái ǵ xuống giếng phải không?”
“Không!”
Con hoảng sợ, cuống lên. “Cháu đứng đây…
chơi mà!”
“Cháu ai? Mày là cháu ai hử? Rơ khéo… Chơi
với ai, chơi cái ǵ? Mày định bỏ thuốc
độc xuống giếng để giết hại
mấy gia đ́nh bầy choa
ở đây phải không? Hử? Con thằng Vỹ
địa chủ phản động giết hại nhân
dân!”
Toàn
thân con run lên. Không thể nói được ǵ, con chỉ
biết nh́n thẳng vào mặt chú Đông. Con muốn nhảy
ngay xuống giếng để được chết theo
thầy, thầy ơi!
Vừa
lúc ấy, chị Tít đứng ngay đằng sau con.
“Khong!
Khong!” Chị kêu lên, lưỡi ngọng líu, mắt
đảo ngược.
“Khong
! Khong!” Vừa nói vừa lắc đầu, chị quờ
tay ôm lấy vai con “Tôi
gặp nó ngoài kia, tôi bảo nó vào nhà chơi với tôi…”
Chị nắm tay con lôi kéo vào nhà. Chị ấn con ngồi
xuống chơng tre, lấy quạt
mo quạt quạt cho con…
… Trở
ra ngoài đường gặp lại chị Tâm, chị
ấy cốc lên đầu con
một cái: “Đồ ngu! Tao đă bảo rồi mà không
chịu nghe. Thấy chưa?”
CHƯƠNG
28
BÉ LỆ UYÊN Đ̉I BỐ MAI DUY VỸ
KỂ CHUYỆN M̀NH CHO CÁC CON NGHE
Lệ
Uyên gục đầu xuống, hai tay bưng mặt
nghẹn ngào. Chị khóc như
bao đứa trẻ trên đời này không hiểu v́
đâu, chẳng rơ tại sao ḿnh sinh ra trong một gia
đ́nh tử tế lương thiện, có đến
nỗi nào mà tự nhiên mới lọt ḷng ra đă lănh
chịu án chung thân thành phần, khổ sai đọa
đầy ngay giữa cái Địa ngục Trần gian hỗn độn những giai
cấp!…
Ông
Vỹ vuốt ve đầu tóc con, lấy hai ngón tay nâng
cằm Lệ Uyên lên nói:
- Nín
đi con, con gái thương của thầy mẹ. Lỗi
tại thầy mẹ cả. Thầy mẹ sinh các con ra
để các con chịu bao nhiêu là đau khổ. V́ thầy
mẹ mà anh trai con, không rơ chết đói hay chết
đuối. Ai đă đánh nó, thắt cổ nó, d́m nó
xuống sông… đến nỗi, sau
này chết rồi, xác vùi lấp ở đâu cũng
chẳng ai biết…? Thầy xin lỗi các con. Hăy tha tội cho thầy!
- Thầy
chẳng có tội ǵ hết! - Lệ Uyên hét lên - Trời có
tội! Chính Trời đă gây ra
bao tai họa đau thương cho gia đ́nh ta! Trời!
Trời!
-
Đừng! Đừng! - Ông Vỹ hốt hoảng xua tay
- Đừng làm kinh động
lên cả Bên Này Bên Ấy. Cả đất nước,
cả nhân loại…
người người nhà nhà đau khổ, đâu
chỉ riêng gia đ́nh họ Mai chúng ta. Bể khổ
Trần gian này thầy vẫn đủ can đảm
để nh́n vào, ch́m xuống. Nhưng đôi mắt nhoà
lệ của con, ôi con gái thương của thầy
mẹ, dù chỉ một giọt trào rơi thôi, cái ḷng
mẹ cha đây thật không sao chịu đựng
nổi. Lệ Uyên ơi, được gặp nhau như thế này con không thấy
là hạnh phúc sung sướng hay sao? Thôi! Hăy quên đi! Quên đi! Quên tất cả
đi!
- Không!
Không! - Lệ Uyên vùng vằng, lúc lắc đầu như
sắp đập vào bức tường nào trước
mặt - Thầy chưa kể hết mà, thầy phải
kể tiếp! Kể cho con nghe, em Thùy Dương nghe, cho tất
cả loài người ở Bên Ấy
Bên Này, Bên Này Bên Ấy nghe.
Con
chưa được biết, được thấy
khoảng thời gian c̣n lại, những giây phút cuối cùng khi thầy từ Bên Ấy đi
sang Bên Này!… Mẹ và các con sau này cũng có nghe
người ta, bà con ở Nga Sơn, cả tỉnh Thanh Hoá
và cả Miền Bắc Xă hội Chủ nghĩa kể
chuyện ông Mai Duy Vỹ bị
chôn sống vào cái năm Cách mạng long trời lở
đất ấy!
Dẫu
rằng chuyện là chuyện có thật, đâu phải
bịa đặt dối trá như bao chuyện trên
đời này, nhưng thầy ơi, suốt 45 năm nay,
con chỉ mong ước trông chờ đến ngày hôm nay
để được nghe
chính thầy kể. Chỉ có thầy kể con mới
thật tin.
Thầy
phải kể để cho con người ở Bên Ấy Bên Này, Bên Này Bên Ấy
nhận mặt chỉ tên ra được Tội Ác.
Nếu như không ngăn chặn tiêu diệt
được th́ cũng để giúp cho con người
biết đường mà tránh mặt Tội Ác! Con van
thầy! Con xin thầy kể đi, kể đi!...
Ông Vỹ
dừng lại nh́n con. Cái nh́n phân vân do dự cách đây đă 45 năm, khi đứa
con gái út hờn dỗi đ̣i bố đưa sang B́nh Lâm
để chơi với bà ngoại. “Con nhớ bà, con
thương bà!” Bố th́ bận
đi khám bệnh chích thuốc cho ông Toành, người quen,
cũng là y tá… Ông Toành đau
nặng. Con trai vừa lên mời chú Vỹ xuống cấp
cứu… Thế mà con hĩm Uyên này cứ lẳng nhẳng
bên bố, nó khóc, nó dậm chân, nó đ̣i thầy phải
đi sang bà ngay… Bực quá, ông khẽ ẩy nó ra. Chỉ
một cái đẩy nhẹ thế mà con bé ngă ngửa,
đầu đập xuống nền nhà, may mà không can ǵ.
Đạp
xe trên đường, nghĩ tới con ông ân hận
đến nôn nao người, chỉ muốn đến
nhà Toành chích thuốc cho mau xong mà về.
Sau
này, khi đă bị Đội Cải cách nhốt cùm ở
điếm canh, cái người được Mai Duy Vỹ
cứu chữa cho hôm đó, y tá Toành đă tích cực góp phần không nhỏ trong việc
dựng chuyện, vu khống thằng
Vỹ phản động gian ác đă tiêm thuốc
độc vào mạch máu bà con nông dân, kèm theo những con
số người bị giết hại cứ y như
thật!
Ôi! Hoá ra
không có thứ độc dược nào, dù nọc rắn
hay thạch tín ở trên
đời này độc bằng cái miệng lưỡi
của con người! Y sĩ Vỹ biết y tá Toành
bấy lâu vẫn ngầm ganh ghét ḿnh nhưng ông vẫn
nhẹ nhàng bỏ qua nhiều chuyện… Cái Tâm trong lành của ông lúc nào cũng vậy, không
muốn vấy nhiễm dù chỉ là một gợn hằn thù.
Đêm
khuya trong điếm canh khi miệng cùm ngoạm cắn ngang cổ chân làm da thịt rơm
rớm máu, ông Vỹ ngước nh́n màn đêm… Ḱa,
đôi mắt nâu đen đẫm nước, cặp môi
hờn dỗi của bé Uyên hiện ra. Con ơi, ông
thầm kêu, có lẽ ông nội xúi con chăng; ngày hôm ấy
thầy không đưa con về thăm bà ngoại ở
B́nh Lâm là dở quá! Thầy có lỗi lớn. Chỉ hơn
một tháng sau là thầy bị bắt giam. Vĩnh viễn
thầy không c̣n được thấy lại bà ngoại. Là con rể, thầy mang
tội bất hiếu. Hai lần bất hiếu!
Ông
Vỹ thở hắt ra, rùng ḿnh.
-
Chuyện dài lắm con ơi! Kể làm sao cho hết
được?
Vệt
máu từ mé đầu bên phải lại ứa ra chảy
xuống thái dương; vệt máu từ giữa
đỉnh đầu chảy qua trán, ḅ dọc theo
sống mũi, đến giữa nhân trung… Hai vệt
gặp nhau đọng ở dưới cằm. Cái vết
nứt ở giữa đầu toác ra, sủi lên, ứa
trào những mảng óc lợn gợn máu. Mai An Tiêm lần
đầu tiên bổ đôi quả dưa hấu
dưới chân núi Nga An cho vợ con ăn, nh́n những
giọt nước hồng, lịm ngọt từ quả
quí trời ban, làm dịu dần cơn đói khát của
những đứa con lưu
đày thuở Vua Hùng dựng nước, chắc không
thể nào ngờ rằng, mấy ngàn năm xa lắc
sau này, những giọt đỏ từ đầu một
đứa con cháu ḿnh bị bổ toác đôi chảy ra c̣n
nhiều hơn, thấm đậm hơn mà vẫn không
đă thèm được cơn khát của bọn quỷ Đỏ trên bàn tiệc máu!
- Ừ
th́ thầy kể đây - ông Vỹ tiếp - kể
được chừng nào hay chừng
ấy, kể tới đâu hay tới đó… Nhưng các con
đừng nh́n thầy bằng
ánh mắt như thế! Nào, hăy b́nh tĩnh lại…
Ḍng
Thời gian tự nhiên đứng lại. Rồi
chuyển dịch ngược chiều.
Không
chỉ mấy cây cột nhà mà bàn ghế trong nhà, mọi
vật cùng
chuyển động, chầm chậm xoay ngược làm
hai chị em cũng thấy ḿnh đang biến dịch,
trôi về một quá khứ nào.
Một
con bé 7 tuổi, áo nâu bạc phếch, quần đen vá
đít đang đứng
trước cổng nhà gọi thầy ơi, mẹ ơi,
mồm méo xệch.
Con bé kia
th́ ḅ bên ngạch cửa, mặt mũi lấm lem
đất cát…
Ông Vỹ
lại dần dần biến thành ḥn lửa đỏ,
chầm chậm xoay 36 ṿng như
cây hương ṿng cháy rồi lặn. Chỉ c̣n tiếng
nói của ông trầm
ấm nghe như hơi gió thở từ đồng cói hoà
với tiếng sóng biển chiều đông.
-
Nào, các con nghe thầy kể…
CHUYỆN KỂ CỦA BỐ
MAI DUY VỸ
CHƯƠNG
29
NHỮNG ĐÊM TRẮNG
26 tháng
Chạp năm Ất Mùi 1955. Ôi, cái ngày ấy nó rét ǵ mà rét dữ!
Hai cổ
chân thầy bị trầy loét, bưng mủ. Chỉ
cần khẽ cựa thôi
cũng đă chạm vào miệng cùm, cứ như cưa
như cắt không tài nào chịu nổi. Mấy đêm
liền thức trắng.
Vừa
chợp mắt, xỉu đi được một lúc
lại chợt mở ra. Ồ lạ chưa, có cái ǵ nhám
ráp phủ lên, cọ vào người ḿnh? Thầy đưa
tay sờ soạng… Rơm rạ đâu ra thế này? Ai mang
vào đây? Thảo nào ḿnh chợp mắt được
một lúc. Thầy cứ nằm yên để cho những
cọng rơm phủ lên trán, mũi và hít thở cái
hương thơm thôn dă.
Hồi
nhỏ, có lần thầy với anh Nuôi, hai tên ngồi canh
bên nồi bánh chưng đêm 27 Tết rồi lăn quay ra
ngủ quên lúc nào không biết. Nằm trong rơm ấm
lắm. Một đêm vui, ôm lấy anh Nuôi nghe kể
chuyện làng xóm. Lại cũng có lần thầy với
chú Đông, hai anh em quần nhau trong đống rơm
gần chuồng trâu. Chú ấy
đă hay dỗi lại c̣n bẳn tính; hơi đụng
một tí là nhè, lại đi mách bà. Lạ thật!
Hồi ấy, thầy không hay biết ǵ hoặc giả không quan tâm ǵ chú em ḿnh là con nuôi, con
rơi ông bà nhặt được. Măi tới sau này,
khi vào học trường Cô-le-giơ trên tỉnh, khai giấy tờ, mới có
người nói cho thầy biết. Biết là biết
vậy thôi, chứ cái t́nh
anh em lúc nào cũng ruột thịt.
Có
tiếng người tranh căi nhau trước sân, ngoài pḥng giam, chen lẫn tiếng gió hú lùa qua
lỗ thông hơi.
Bây
giờ chắc độ khoảng 1 giờ sáng. Trời
rét cắt thịt xé da thế mà sao ai đó vẫn c̣n thức để làm ǵ
không biết. Thầy dỏng tai
cố nghe câu được câu chăng.
Thật
không ngờ, ngoài kia hai anh dân quân vẫn canh gác ngày đêm,
c̣n có đủ mặt cả năm người: chú
Đông, Hĩm Xoa, C̣ Toe, y tá Toành và ông Đội.
Qua
câu chuyện của họ thầy mới hiểu ra: đă
hai hôm nay nhà họ Mai chẳng
c̣n cái ǵ để đổ vào miệng; sau khi bà chết rồi, mẹ cũng lăn ra
ốm và không ai đưa cơm đến cho thầy.
…Gọi
là cơm cho nó ra vẻ chuyện ăn uống của con
người thôi, chứ
cái đọi cháo mẹ và chị con đưa tới cho
thầy hai hôm trước
chỉ có mỗi nhúm gạo nấu với lá khoai và
đụt khoai.
Mẹ
bảo, mẹ phải thức dậy lúc nửa đêm, lén
ḅ ra luống khoai nhà ḿnh sát
bụi tre, dùng con dao cùn đào bới… Khoai đă thành củ đâu, chỉ mới nhú
ra đụt, giải khoai. Đang đào đang moi th́
con chó nhà Đông nó mới chạy ra, may mà nó không sủa,
lại c̣n vẫy đuôi ngửi hít bên chân nữa. Hú vía ba
hồn chín vía! Nó mà sủa th́
vợ chồng Đông thức dậy, Quân Chủ lực
nông dân cứ là xông ra đạp đầu ḿnh
xuống đất. Khoai là khoai ḿnh trồng, ấy thế
mà lại phải lén lút đi ăn trộm về. Có
khổ nhục không, hở Trời!
Vậy
là hai hôm nay không ai đưa cơm cho thầy!
Thế
th́, cục cơm độn khoai và mấy củ sắn
thầy nhận được từ tay anh T́nh, dân quân canh
gác ở đây là của ai? Của ai nhỉ?
Ai mà to gan
lớn mật dám đưa vào đây? Anh T́nh này chăng?
Thầy
nghĩ. Cứ nh́n vẻ mặt kín đáo lạnh lùng
của anh bần nông này th́… thật khó đoán.
Thầy
nhớ lại tháng 3 năm Ất Dậu 45, khi ông nội
con sai người nhà khuân cái
nồi ba mươi cháo ra đầu ngơ để cứu
đói cho làng xă th́ ông bố đẻ ra T́nh là
người đến trước tiên. Lúc đưa bát
cháo để anh Nuôi múc cho, ông này cúi gập đầu
xuống nói: Kính lạy ông bà,
một miếng khi đói bằng một gói khi no, qua
cơn đói kém lần này,
chẳng biết con có c̣n không hay là chết; dù có về
Âm phủ con cũng đội mồ lên ghi nhớ ơn
cưu mang của ông bà!...
Hồi
ấy, cứ mỗi tuần ông bà nội con nấu hai
nồi cháo như vậy.
Mẹ
của T́nh cũng có lần lên nhà ta xin thuốc, chích
thuốc. Những người này có tiền đâu mà
trả, mà thầy cũng chẳng bao giờ nghĩ
tới chuyện lấy tiền của họ.
Vậy
th́, ai là người hai hôm nay đưa cục cơm,
củ sắn cho ḿnh?
Cứ
nghĩ tới cái nh́n rụt rè sợ sệt, đảo
bốn phía quanh buồng giam, bàn tay lóng ngóng lấy gói
bọc lá chuối khô lôi từ trong túi áo lưng quần ra
đặt vội trước mặt thầy… “Ông ăn
đi cho đỡ đói”… “Ai cho tôi thế này?” Thầy
ngạc nhiên hỏi. “Không biết! Không biết!”. Lắc
đầu, đáp khẽ, vội vă bước ra ngoài… anh ta c̣n ngoái lại nói: “Tóc ông bạc
trắng hết cả rồi!”
Bây
giờ th́ T́nh đang phân bua với những người
kia về chuyện ḿnh đă
quẳng ít rơm rạ vào pḥng giam để thầy
lấy cái phủ đắp
lên.
“Mày
thương thằng Vỹ hả?” - chú Đông nói, nghe
như quát nạt.
“Ái chà! Anh
lày nại muốn nàm tay sai, niếm gót cho thằng
địa chủ bóc nột, áp bức nhân dân, phản
động bán lước đây”.
Y tá Toành
hay lè nhè, mồm nồng nặc rượu, vừa tiêm thuốc cho bệnh nhân vừa thô
tục cà chớn… không thể lẫn đi đâu
được.
“Rét!
Rét cái ǵ! Chỉ ḿnh thằng Vỹ biết rét thôi hử,
thế c̣n trẻ con người già, nông dân cả cái Nga Bạch,
Nga Sơn này người ta không ai rét hay sao? Cho nó chết!” - Hĩm
Xoa nói.
“Cho
nó chết!” - C̣ Toe đế thêm, lặp lại.
“Ló bóc
nột, ló hăm hiếp dân nành, ló nhai xương hút máu bà con
lông dân bao lăm lay, trong người ló c̣n ói mỡ nà mỡ, anh no cho ló rét ló nạnh nà
nghĩa ní ra nàm sao?”
“Nó
chưa chết ngay đâu!” - Ai đó nữa, vừa nói
vừa ngáp.
“C̣n
nâu ló mới chết!”
Chờ
cho mọi người nói xong, ông Đội người
Nghệ An vừa rít một
hơi điếu cày dài, sặc sụa ho, lấy tay
vỗ vỗ vào miệng ống điếu nói:
“Tôi đă
trao đổi mấy lần rồi và các đồng chí
cũng đă nhất trí thông qua trong cuộc họp hôm
trước là, ta phải nhét một cái que sắt ngang mồm thằng Vỹ, lấy dây
buộc ra phía sau gáy, ngăn sao cho hai hàm răng
khỏi chạm vào nhau, để nó khỏi cắn
lưỡi tự tử. Kinh nghiệm xương máu
đấy, các đồng chí ạ. Ở trong quê tôi đă
xẩy ra mấy vụ tự tử v́ thiếu cái que
sắt gang mồm mấy thằng
địa chủ… Tại sao đến bây giờ các
đồng chí vẫn chưa… thi hành?”
Thầy
giật nẩy ḿnh. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ
tới bây giờ, đă có khi nào nghe cái chuyện quái ác,
lạ lùng như vậy? Ừ th́ ḿnh là con ngựa, con trâu
để con người họ làm cái tṛ đó cho đành một thể; đằng này
ḿnh là con người! Họ chẳng bàn kín với nhau
ở đâu, sao lại kéo nhau tới đây cố ư rót vào
tai, đổ vào óc ḿnh những
lời ấy, ra cái điều để cho ḿnh biết
rằng ḿnh chẳng c̣n được là cái con
vật nữa hay sao? C̣n họ là… là Trời, hơn
Trời nữa, Trời cũng phải đội họ
lên đầu. Nhất Đội nh́ Trời mà!
Thầy ứa nước mắt.
Nghĩ
tới cái đêm tháng trước đây họ dùng dây
thừng buộc hai ngón chân cái
thầy rút ngược lên xà nhà, để đầu và hai
tay rơi thơng xuống, rồi…
cứ gậy tre, gậy lim, hai người đứng hai
bên phang đập vào ống chân, sau lưng,
trước bụng… vừa hét vừa la bắt thầy phải nhận tội là đă cưa
chặt hết chân tay của 51 anh Vệ quốc đoàn,
đă tiêm và cho uống thuốc độc giết chết
gần cả trăm bà con nông dân, trong đó có bốn
phụ nữ mang thai, vị chi là 8 mạng một lúc; không
phải, những 9 kia, v́ có một bà mang thai đôi, sinh hai
đứa…
Thầy
kêu lên trong cơn đau: Thưa các ông bà Đội, các ông bà nông dân… Vâng, tôi xin nhận
tội. Tôi đă cưa, đă chặt, đă tiêm
thuốc độc, đă giết chết… nhưng không
phải chỉ có thế thôi đâu, nhiều hơn,
nhiều hơn nữa… Một ngàn chín trăm năm
mươi lăm người kia! Nghĩ tới năm 1955
tự nhiên thầy buột miệng nói vậy.
Và
thầy hét to: Đúng tôi đă giết người.
Giết bằng dao! Giết bằng xê ranh! Tôi đă cầm
xê ranh đâm cả đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ,
đâm cả Chủ tịch tỉnh, đâm cả
Trưởng ty Công an! Rồi thầy cười sằng
sặc. H́nh như trong bọn họ có người không
nhịn được cũng
đă cười theo.
Ngay
lập tức, C̣ Toe cầm cây gậy lim vuông cạnh, gơ
một cái thật
mạnh vào đầu gối chân phải thầy. Rồi
tiếc rẻ, gơ thêm một cái
nữa c̣n mạnh hơn, vào đầu gối bên kia.
Họ
cởi tháo dây thừng, định để thầy
ngối xuống đất nhưng thầy đă ngă
vật ra… Máu từ trong lỗ mũi, ộc tuôn xuống
nền nhà. Chờ cho thầy mở mắt, họ lại
tiếp tục tra hỏi thêm về hai tội nữa.
Tội
một: Cắt dây điện!
Thầy
trả lời họ: Khắp cả Nga Sơn và Thanh Hoá,
mọi nhà dân đều thắp đèn bằng dầu
trảu, dầu lạc và rất ít dầu hoả; t́m
đâu ra dây điện đèn ngoài đường? Nếu
c̣n sợi dây điện nào từ thời Pháp thuộc để lại th́ cũng
chỉ để giăng phơi quần áo. Tôi cắt dây
điện để làm ǵ? Cắt ở đâu? Ai thấy
tôi cắt?
Họ
bảo: Cái năm mày làm y sĩ cưa chân chặt tay các anh Vệ quốc đoàn, mày đă dùng
liềm, trèo lên cây quạc cho đứt dây điện
để đơn vị bộ đội không bắt
liên lạc được với Bộ chỉ huy. Rồi
máy bay Pháp tới, mày c̣n giả vờ đi ỉa;
chui vào ngồi trong bụi cây,
bấm đèn bin lên trời làm hiệu cho Pháp nó bỏ bom!
C̣n chối nữa không? Ai thấy th́ làm sao mày biết
được, mà biết để làm cái chi! Có
người thấy. Thấy rơ ràng. Quần chúng, Quân
Chủ lực trăm tai,
trăm mắt…
C̣n
tội thứ hai nữa, tội này rất nặng,
rất to!
Mày đă
từng bắt liên lạc với các cha cố ở Bùi Chu,
Phát Diệm, từ đó mày cấu kết với Pháp. Mày
quen thân với thằng Lê Hữu
Từ, trùm sỏ Công giáo… C̣n chối nữa không?
Thầy
trả lời họ: Tôi là đảng viên Đảng Lao
động Việt Nam. Tôi chỉ thờ các ông Mác, Ăngghen, Lênin, Stalin và Bác
Hồ… Ngoài họ ra tôi thờ
ông bà, tổ tiên. Tôi không theo tôn giáo nào. Những
người Công giáo yêu nước như bác sĩ Vũ
Đ́nh Tụng, có con trai hy sinh ngay những ngày
đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi cũng
kính trọng họ…
Họ
cắt ngang lời thầy: Vỹ! Mày nói bậy! Tôn giáo
tức là quân phản động, bè lũ tay sai của
đế quốc phong kiến, chống phá Cách mạng…
Chỉ có người Cộng sản, nhân dân ta mới yêu nước, ngoài ra chẳng có ai yêu nước
hết! Hăy nhận tội đi! Trong nhà mày có
đủ sách Tây sách Tàu. Rất nhiều sách chữ Tây. Có
một quyển rất dày, to bằng cái gối, trong đó
chụp đủ h́nh bọn vua quan phong kiến, thực
dân… Có cả ảnh Giêsu nữa. Đúng không?
Trong
đầu thầy bóng tối dần dần chuyển thành
ánh sáng. Thôi chết cha rồi! Hoá ra là…
CHƯƠNG
30
CHUYỆN ĐỒNG CHÍ Y TÁ TOÀNH.
CHUYỆN
VỚ VẨN TRONG NHÀ.
CHUYỆN TÀO
LAO KHÁCH KHỨA.
Thầy gặp Toành ở
Đại đội trong chiến dịch Hà Nam Ninh.
Cứ theo lời Toành tự kể th́ anh ta quê gốc
ở Thái B́nh, Nam Định ǵ đó, đói Ất Dậu
phiêu bạt vào Nga Sơn - Thanh Hoá. Ừ th́ cũng coi
đồng chí này như đồng hương Nga Sơn -
Thanh Hoá. Chính thầy đă
lấy anh ta lên làm lao công, hộ lư. Toành có tật nói ngọng, cà lăm… chữ to quốc
ngữ đọc cũng chưa thạo; tên thuốc th́
chẳng những không gọi được mà c̣n nhớ
tầm bậy; tiêm thuốc th́ trầm trầy trầm
trật măi mới chọc được mũi kim vào ven…
Đă thế lại c̣n phách
lối, nói trạng. Có biết quái ǵ đâu về y tế.
Ngay cả danh hiệu y tá cũng là do anh ta tự phong cho ḿnh, Toành có được qua
trường lớp đào tạo nào đâu!
Một lần
đang ca mổ, tay chân lóng ngóng thế nào, Toành đánh
rớt cái khay có đủ dao, kéo, pince… xuống
đất; anh ta vội nhặt lên, phồng má thổi phù
phù, đưa vạt áo ra lau vội… Thầy mới
nổi điên lên mắng anh ta là đồ ngu, hậu
đậu, đồ óc bùn… Giữa
đám y tá, hộ lư, Toành đỏ mặt giận, từ
đó có ư để bụng…
Thầy biết, nhưng
rồi công việc ngập đầu, chẳng c̣n th́ giờ đâu tṛ chuyện với anh
ta nữa. Thương binh ngày một nhiều, người
phục vụ không đủ, rồi lại phải
nhờ đến Toành. Có hôm thầy
bảo đưa đây lọ cồn, đầu óc
để đâu đâu Toành lại đưa cuốn băng,
cái kéo… Các loại thuốc Tây thông dụng cũng thế,
đă bày đi dặn lại nhiều lần, dẫu có khá
hơn rồi vẫn vậy… nghĩa là lộn phèo, bát nháo
chi khươn!… Áp bờ phên (aspirine), đá ghè răng (dagenan),
Canh kí dốt (teinture d’iode)… xít tép, pêni… cứ Việt Nam hoá ra vậy th́ may ra Toành c̣n
nhớ.
Một lần, ở Tiểu
đoàn bộ, thầy giảng giải cho Toành hiểu “nhà
dây thép” là ǵ, bưu điện là ǵ, điện thoại
moóc-xờ là ǵ, đánh moóc nghĩa là làm sao?… dây điện
thoại mà bị đứt là tin tức
phát đi cũng bị ngừng, nghĩa là không c̣n nghe
thấy ǵ nữa. Người
chỉ huy, Bộ Tư lệnh mà mất tin tức liên
lạc với cấp dưới th́ chiến dịch
ở thế thắng cũng chuyển thành thế thua.
Rất nguy hiểm! Trong chiến tranh ở các nước
phương Tây, người ta mà bắt được
quả tang người nào đang cắt dây điện là
kẻ ấy chắc chắn
lănh án tử h́nh.
Có một lần thầy cùng
đi với Toành từ Phát Diệm về Nho Quan. 9 giờ
tối. Đột nhiên có máy bay Bà Già Pháp rè rè tới
lượn quanh vùng. Lại đúng lúc thầy đau
bụng nên chạy vội vào bụi cây gần
đường để đi ỉa. Chính tay thầy giao
túi xách cứu thương có
chữ thập đỏ và cái đèn pin cho Toành, dặn anh
ta chớ có táy máy tḥ tay vào công tắc mà đèn bật
sáng; máy bay nó xả liên thanh dội bom xuống đầu
cho mà chết cả lũ bây giờ!…
Vừa ngồi vào bụi cây
chưa kịp ị, th́ lạ chưa, cái đèn pin bên kia
đường tự nhiên loé sáng. Thầy hét lên. Lóng nga
lóng ngóng một lúc Toành mới tắt được ánh
đèn. Máy bay Bà Già Pháp xuống rất thấp, như
vừa nhận được dấu hiệu ở
dưới đất, lượn
quanh mấy ṿng…
Cả hai đồng chí vùng
căng chạy. Chạy được một quăng
chừng hơn nửa cây số th́ đạn pháo ca nông
của địch từ ngoài biển
câu vào uỳnh oàng liên tục. Hú vía!
Thầy mắng cho Toành
một trận. Hắn ta cười h́ h́ bảo rằng
lần đầu tiên trong đời được
cầm đèn Bim nên thích quá, thử…
bấm chơi! Thích cái tiên sư cha mày! Đồ
đồ…
Thầy lại
nhớ tới cuốn tự điển Larousse của nhà
ta thường đặt trên bàn làm việc
sau cửa sổ… Đúng là trong ấy có đủ h́nh
ảnh các ông Tây đế quốc từ Napoléon tới
Pasteur. Có lần thầy c̣n chỉ dẫn cho bầy
đứa và cả chú Đông đứng bên xem h́nh Chúa Jesus Christ.
Rồi lại
nhớ…
Cái lần nào nhỉ? Giữa
đám bạn bè khách khứa tới chơi nhà, nhân lúc vui chuyện thầy
kể ḿnh đă thấy Vua Bảo Đại năm vào
thăm Huế đúng dịp lễ Nam Giao. Rồi sau này
Tổng khởi nghĩa 1945, khi Cố vấn Vĩnh
Thuỵ trên đường ra Hà Nội, qua Thanh Hoá, nghỉ lại nhà Uỷ ban,
ngày xưa gọi là Toà Sứ, thầy lại gặp
Bảo Đại.
Lần này không
phải thấy xa xa mà ngay trước mặt.
Chả là, dạo
ấy thầy được cấp trên điều
động công tác vào nhà Uỷ ban để
phục vụ, khám chữa bệnh, tiêm thuốc cho mấy
ông lớn Cách mạng: Chủ
tịch, Bí thư… Khách Trung ương từ Hà Nội
vào, trong Nam ra… Các ông Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt, Lê Tất Đắc, Lê
Chủ…
Đang ngồi ở pḥng
khách, thấy cố vấn Vĩnh Thuỵ đi từ
buồng tắm gần đó ra, trên người chẳng
mặc quần áo ǵ hết, cứ trần truồng rất chi là tự nhiên, thầy
đâm ra lúng túng, không biết nên chạy đi đâu…
Cố vấn hiểu ư, gật đầu cười, nói
giọng Huế: “Cứ tự
nhiên! Cứ tự nhiên!” Rồi thong thả trở về
pḥng ḿnh.
Chuyện kể
tới đó mọi người ai cũng cười. Có
người lắc đầu không tin. Lẽ
nào đồng chí Cố Vấn, anh Vĩnh Thuỵ, cựu
hoàng Bảo Đại mà lại
như thế?
Một người bạn
của thầy là Hà Kính Lăm, c̣n gọi là Bang Lăm, thời Pháp
ông này làm Bang Tá, có lúc làm việc và sống gần Bảo Đại… Ông Lăm lên
tiếng xác nhận đúng là Bảo Đại quen sống tự nhiên như Tây vậy.
Cựu hoàng vô tư và hiền lành, cả đời
chưa giết hại một người nào!
Nhân ngày lễ Noel
sắp đến, mọi người lại nói sang
chuyện Nhà thờ và các
Cha cố!
Hồi thầy c̣n làm ở Nhà
thương Thanh Hoá các Cha cố đến khám chữa
bệnh là chuyện thường. Họ là người,
cũng ốm đau bệnh
tật như ai. Thầy cũng chỉ biết sơ
sơ về họ, không quen thân
với một vị nào.
Ông Bang Lăm, bạn của
thầy, biết khá nhiều về họ. Ông này kể chuyện
ḿnh đă từng gặp Giám mục Lê Hữu Từ
tại nhà thờ Phủ Cam ở Huế. Cũng t́nh
cờ mà gặp thôi chứ không có quan hệ ǵ; bởi
lẽ đồng chí Lăm bây giờ đă là đảng viên
đảng Cộng sản, ngày
xưa hồi c̣n làm bang tá cho Tây, không chỉ che chở cho
ông em là Hà Kính Thắng, hiện là Phó Chủ tịch
tỉnh, mà c̣n cưu mang
cả đồng chí của em ruột ḿnh nữa…
Lăm kể, Lê Hữu Từ
người nhỏ gầy, trông rất thông minh mà cũng
có vẻ hiền lành, bây giờ đang là trùm Công giáo ngoài Bùi Chu, Phát Diệm, ngay sát nách Nga
Sơn ḿnh…
Một người khác chen
vào, thông tin cho mọi người biết, ngoài Bùi Chu, Phát
Diệm, dưới nhà thờ có những cái hầm sâu,
nhiều đảng viên Cộng sản, du kích quân của
ta đang om xương ră thịt… Cả một núi
đầu lâu Việt Minh trong đó! Kinh khủng chưa!
Như vậy, người
gặp Giám mục Lê Hữu Từ là ông Bang Lăm, sau Cách mạng tháng Tám chuyển
sang làm nghề dạy học, được kết
nạp vào Đảng năm 1948, chứ đâu có phải
Mai Duy Vỹ, mà bây giờ người ta lại tra hỏi
thầy!
Ối! Trời cao đất
dày! Lời nói đọi máu! Cái đời này sao mà rắc rối hiểm độc
thế! Ai trong đám khách khứa bạn bè họp mặt
ở nhà tôi hôm ấy đă dựng chuyện
đổ vấy sang cho tôi? Ông Bang Lăm, đồng chí Lăm, thầy giáo Lăm th́ xa chạy cao
bay, sống nơi nảo nơi nào rồi!
Ai thế nhỉ?
Ai?
Chú Đông th́ rơ mười
mươi là tác giả của cuốn sách dày như cái
gối có đầy đủ ảnh bọn Tây đế
quốc và Chúa Trời phản động rồi. Không
lẽ chú lại c̣n là tác giả của… Chắc chắn
không phải! Chúa Trời làm sao mà nhét nổi Đức cha
Lê Hữu Từ vào cái đầu ḅ, óc lợn của
đồng chí Lê Trạch Đông!
Vậy th́ ai? Ai? Ai là
người đơm đặt chuyện, dựng
đứng thanh gươm
độc này lên!? Thầy cố nhớ… cố nhớ…
Đột nhiên, cả chùm
thần kinh trong đầu răo ra, đứt dần… c̣n
lại sợi căng nhất nối linh hồn thầy
với Cơi Sống cũng muốn đứt luôn.
Linh hồn thầy
ch́m trong vũng máu. Mê man…
Mở mắt ra…
Tiếng rít điếu cày
lại vang lên trong đêm đông giá rét nghe phát kển
người như đường gươm đưa,
lưỡi hái vung của Thần Chết. Vỗ vỗ
miệng điếu cày xong, lại vẫn cái ông
Đội trưởng Đội Cải cách người
Nghệ An đó nói: Ông ta nhắc lại cho cả bọn
nghe là phải gang mồm thằng Vỹ, đặt ngay
một cái que sắt, buộc dây
ṿng vào sau gáy… để đề pḥng nó cắn
lưỡi tự tử, nó mà cắn lưỡi
tự tử là hỏng bét! Không đưa nó ra bắn
ở đấu trường được là cả
một thất bại chung không chỉ cho công cuộc vận động đấu tố
của quần chúng Cách mạng, Quân Chủ lực Nông dân… mà c̣n hạ thấp uy tín của
Đội, của Chi bộ Đảng mới thành lập!
Cả bọn xuưt xoa, nói sang
chuyện thời tiết giá rét. Rét ǵ mà rét dữ!
Rét không kém ǵ năm Ất Dậu 45! Rét cóng cả tay chân, máu
trong người đông lại. Rét đến nỗi cá
trong ruộng, ngoài đồng chết cóng nổi lên. Sáng
dậy, sương giá như rắc muối bột trên lá
cây, rau trồng không mọc nổi, héo úa… vụ mùa này coi
như mất trắng. Biển động, không ai đi
khơi. Nhà nhà hết gạo. Phải
đào củ chuối ăn với hổng xanh!
CHƯƠNG
31
LÀ CON NGƯỜI, MAI DUY VỸ
CŨNG THAM
SỐNG SỢ CHẾT…
Thầy lại
thiếp đi.
Vũng máu quanh ḿnh hồi
đầu đêm c̣n dâm dấp dưới lưng bây
giờ đă ngập tràn lên tới mũi, mang tai? Thầy
muốn động cựa ngoi
lên để thở, muốn chống tay ngồi dậy;
nhưng mỗi lần cố lại mỗi lần
xuội đi, xịu xuống…
Biển máu ngập
ngụa đang duềnh lên, duềnh lên… Cái thây Mai Duy
Vỹ nằm ngửa không trôi đi mà cứ yên vị
tại chỗ. Ḿnh chết thật rồi chăng?
Thầy nghĩ. Họ sắp giết ḿnh? Đă mấy ngày nay câu hỏi ấy
cứ lui tới, ṿng vo trong đầu; lúc th́ âm i vo ve như cánh ong ruồi, khi th́
ầm ào như cơn băo biển. Ừ th́ đời con
người ta, ai sinh ra rồi cũng một lần
chết. Nhưng ḿnh mới 36 tuổi, bàn chân chưa đi
vợi nửa con đường; cả một
đời trong trắng vô tội, ấy là chưa kể
bao điều hữu ích, nhân đạo ḿnh đă làm v́
Đảng, cho dân!
Ḿnh yêu đời,
thương người thế sao ḿnh lại phải
chết? Ai bắt ḿnh
phải chết? Thật oan uổng và bất công!
Đôi mắt của con
hiện lên ḱa! Ôi Lệ Uyên, con mới 7 tuổi. Mắt con
như mảnh trăng trên Ḥn Nẹ, đêm nào thầy
bồng con ngoài đồng cói nh́n ra biển. Mảnh
trăng vô tội. Ḥn Nẹ vô tội. Con gái tôi vô tội.
Chúng ta đều vô tội. Làm sao các con tôi từ đây có thể sống mà không có
bố?
Người ta sắp giết Mai Duy Vỹ ư?
Chuyện vô lư quá. Vô lư như người ta muốn
giết bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mùa nào th́ cũng
phải để tự nó hết, tự nó ra đi
chớ.
Bao
năm rồi y sĩ Mai Duy Vỹ vẫn thường nghe
người ta nói, hoặc chính ông ta nói, khi một con bệnh không c̣n
sống nữa: “Anh ấy… bà ấy… chết rồi…”
Chuyện này có thể hiểu được bởi v́ Vỹ cùng các thầy thuốc
đă bó tay, không c̣n cách ǵ cứu mạng cho những con
bệnh đó. Và phải chấp nhận.
C̣n bây
giờ th́ Mai Duy Vỹ lại nghe người ta nói:
“Thằng Vỹ sắp chết!
Chúng ta sắp đem nó ra bắn để toàn Đảng
toàn dân thấy được rằng ư nghĩa của
cuộc Cách mạng long trời lở đất này rất
chi là quan trọng. Đừng để Vỹ chết
trước khi đem nó ra xử bắn. Phải
đặt một cái que bằng sắt gang mồm nó
lại để cho nó khỏi
cắn lưỡi tự tử.”
Như
vậy th́… vô lư hay là có lư?
Thầy
tiếp tục suy luận như đang tranh căi với ai
ngồi trước mặt ḿnh.
Cái người-vô-h́nh
đó nói với thầy như thế này:
Mai
Duy Vỹ phải chết bởi tội của nó nặng
lắm, lớn lắm. Nó đă giết bao nhiêu người! Chúng ta giết Mai Duy
Vỹ chẳng những không có
tội mà c̣n có công lao thành tích nữa. Bởi cái
điều đơn giản dễ hiểu là, giết
một kẻ có tội th́ không bao giờ có tội!
Nhân dân ta,
Đảng ta không bao giờ có tội! Làm Cách mạng có thể mắc khuyết
điểm chứ không bao giờ phạm sai lầm. Nếu
chỉ v́ sợ sai mà không dám làm th́ c̣n gọi ǵ là Cách
mạng nữa! Ưu
điểm bao giờ cũng là chính, khuyết điểm
là phụ… có sai lầm khuyết điểm th́
mới thấy được thành tích ưu điểm là
to lớn, quan trọng. Bởi thế cho nên, ngay cả
trong khuyết điểm và sai lầm, nếu có đi
nữa nhân dân ta vẫn bất diệt, Đảng ta càng
vĩ đại!
Phải
giết thằng Vỹ! Không chỉ một thằng Vỹ
mà hai ba thằng Vỹ nếu cần. Đừng
để cho nó chết trước khi chúng ta đưa nó ra giết…
Đó là
mục tiêu duy nhất mà chúng ta phải nhắm tới và thực hiện.
Thầy
quay sang đếm những con số. Một hai ba bốn…
Bắt đầu là kim giây đồng hồ chỉ
từ số 12 đến số 6. Chỉ vậy thôi
rồi nhân đôi lên để
biết mạch đập của bệnh nhân trong một
phút là bao nhiêu. Biết bao
lần như thế trong bệnh viện?
Đến
số 36, thầy chợt dừng lại. Ḿnh đă
sống tới hơn nửa đời
người sao? Nhà ta chưa có ai sống tới 70 cả.
Ông cố họ Mai, cụ Thám hoa chỉ sống tới 63.
Ông nội của thầy chỉ… 43. Ông nội của con
60. Bà nội con 57. Ḍng họ Mai cứ đoản thọ,
yểu mệnh dần…
Ngày
xưa, năm hết Tết đến người ta
thường chúc nhau mạnh khoẻ sống lâu. Vậy mà
rồi có người lại ngậm ngùi thở than: đa
thọ đa nhục! Chỉ có vua chúa mới
được dân chúng cầu nguyện và tung hô vạn
tuế, vạn vạn tuế!
Ngày nay th́
ngoài Đảng ra chỉ có Bác Hồ là được toàn
dân hô muôn năm. Đến như anh Trường Chinh
cũng chỉ được hoan
hô thôi th́ c̣n nói ǵ đến ai!
Mọi
người dân đều phải sống hy sinh quên ḿnh. Hy
sinh, trước
hết có nghĩa là phải chấp nhận cái nghèo, sau
nữa là cái chết khi Cách mạng cần.
Lo
lắng cho bản thân ḿnh là chuyện xấu xa đồi
bại rồi, nhưng
thương cảm cho gia đ́nh, người thân lắm
khi cũng vẫn là điều kiêng kị, đáng chê
trách. Phải hiến dâng tất cả cho sự nghiệp
cách mạng để chủ nghĩa Cộng sản,
thế giới đại đồng được kiến lập trên khắp
địa cầu. Ấy mới là tiêu chuẩn, mẫu
mực đạo đức của người
đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản quang
vinh!
Vâng!
Đó cũng chính là ước muốn của đời
con. Kính thưa Bác cùng các anh lănh
đạo trên Trung Ương! Đă có bao giờ ḷng con hoen ố v́ những vết mờ
hoài nghi cái mục tiêu cao cả thiêng liêng của Cách
mạng?
Không! Không
bao giờ! Ḷng dạ con đây… hoàn toàn trong trắng! Tâm hồn con đỏ tươi màu
cờ Liềm Búa. Cha mẹ
con, vợ chồng con vui vẻ chấp nhận
được chia sẻ, hoà đồng với
cảnh nghèo khó túng thiếu của bà con nông dân. Ăn bát đất mẻ, cơm
độn, cà thâm, đắp chiếu, mặc áo quần
nâu, lội bùn, cày cấy trên mảnh ruộng cùng bà con
ư? Chúng con xin cố gắng làm theo, làm đủ.
Một
thời ḍng họ, gia đ́nh con được đầy
đủ, sung sướng hơn bà con làng xă. Đúng
thế! Bây giờ bà con làng xă cần bao nhiêu ruộng, theo
lệnh Đảng, vâng lời Bác, chúng con sẵn sàng dâng hiến!
Nếu
các ông bà nông dân, các đồng chí công nhân lănh đạo
tiền phong, coi những tri thức của con do nhà
trường đế quốc
thực dân đào tạo ra là không bằng cục phân, à
cục cứt chứ, Mao Chủ tịch vĩ
đại đă từng gọi như vậy: Cục
cứt! Vâng cục cứt! Và
một đời cầm xê-ranh, cầm dao mổ của
con đă không có công mà c̣n có
tội nữa; bởi v́ thể xác con, đầu óc con, tâm
hồn con đều do ṇi giống, thành phần
địa chủ bóc lột mà ra cả… th́ hăy cho con được làm kiếp
tôi đ̣i, phục dịch bà con bần cố nông
để trả nợ, đền ơn họ.
Con xin làm con trâu đi cày, con ḅ đi
bừa… Con xin làm đứa ở để dọn dẹp
nhà cửa, hầu hạ bếp núc. Nếu vẫn chưa
thoả măn được bà con bần cố th́ con xin làm
con chó để sủa trộm, dọn
phân, con xin làm con mèo để bắt chuột!…
Nhưng
xin đừng giết con, để cho con sống!
Tuổi đời con mới 36, ba đứa con dại th́
một đứa vùi xác mất tích ở đâu rồi, c̣n lại hai đứa… con mà
chết th́ lấy ai người nuôi chúng?
Lệ
Uyên! Lệ Uyên! Thầy gọi tên con!
Thầy
sợ chết, các con à. Thầy sợ lắm. Thầy khóc.
Cứ tưởng đâu lệ
đă cạn khô rồi; vậy mà, hễ nghĩ tới các
con ḍng lệ lại tuôn
trào.
Chắp
hai tay thầy lạy Đội Cải cách, thầy vái bà
con nông dân. Họ đâu có
trước mặt ḿnh như ở ngoài đấu
trường, vậy mà thầy cứ gập đầu
xuống ngực mà vái mà lạy.
Mấy
lần ngoài trường đấu thầy c̣n ngẩng
đầu lên, không phải để doạ nạt cao ngạo với ai;
khốn nạn, đă biết ḿnh sa vào cái phận “chim treo
trên lửa, cá nằm dưới dao” rồi, vậy mà
vẫn c̣n cố căi!
Không căi
làm sao được hở con, Lệ Uyên ơi, khi
người ta vu oan giá họa cho ḿnh những tội danh mà
chẳng phải ḿnh, thiên hạ có nằm mơ cũng
không tưởng tượng ra nổi. Chỉ nghe thấy
thôi, trẻ con nó cũng chẳng tin, người lớn
tuổi không nhịn được cười. Cái
thời chúng ta đang sống đây, Địa ngục
Trần gian ma đưa quỷ dẫn, nó lạ lắm,
rùng rợn lắm, con ơi! Ai muốn sống kẻ
ấy phải biết sợ. Sợ rồi, chưa
đủ, c̣n phải chịu nhục, chịu hèn nữa!
Hai
ống chân thầy lở loét v́ lâu ngày cọ xát với
miệng cùm. Phía sau mông đít c̣n
khốn khổ hơn, ung nhọt thối rữa, ḍi bọ
ḅ lên cả trên ngực, trên cổ… Mỗi lần trở
ḿnh hoặc muốn ngồi dậy thầy cố
nghiến răng để khỏi bật lên tiếng kêu
rên. Kêu rên để làm ǵ khi không có ai nghe nỗi đau
của ḿnh?
Cũng
c̣n may là họ chưa đặt que sắt ngáng mồm ḿnh
lại. Thầy đâm ra biết ơn người nào
đó đă bàn ngang, bàn lùi, chưa thực hiện cái
chỉ thị của ông Đội, là phải gang mồm
thằng Vỹ… Anh ta cho rằng chưa thật cần
lắm và cũng chẳng đến nỗi như vậy
đâu!
Đă
thế th́ thầy c̣n phải ghi ơn tất cả
bọn họ; nhất là ông Đội trưởng, anh
bộ đội Cụ Hồ, đă từng tham gia
Cải cách Ruộng đất đợt đầu tiên,
người quê gốc Nam Đàn, như lời anh ta nói
với các đồng chí ngoài sân kia…
Lần
này nếu tai qua nạn khỏi, họ không giết ḿnh, c̣n
để cho ḿnh
sống… thầy sẽ đến trước từng
người, cúi gập xuống dưới
đầu gối họ mà lạy, ghi ơn họ!
Thầy
sẽ lạy mỗi người ba lạy; riêng chú
Đông, Hĩm Xoa, C̣ Toe, y tá Toành th́… xin lạy 5 lạy,
không, nhiều hơn kia, những
10 lạy! Bởi v́ sao? Bởi v́ chính bốn vị này
đă dắt dẫn Cái Chết đến cho
thầy, làm thầy hiểu được ḿnh ham sống,
quư mạng sống đến
chừng nào!
CHƯƠNG
32
TÂM TƯ
TRONG TÙ. BỐ VỸ NGHĨ VỀ NHỮNG NGƯỜI
CỘNG SẢN M̀NH QUEN BIẾT NGÀY XƯA VÀ BÂY GIỜ
Ở trong pḥng giam này,
nhiều lúc không phân biệt được ngày và đêm.
Tiếng chó sủa trong làng
ngoài xóm vẳng vào đây chẳng nghĩa
lư ǵ: cái giống loài ba phải nông nổi ấy có thể
gâu gâu sủa bất cứ lúc nào khi thấy có bóng
người bóng ma…
Thật kỳ lạ. Nó có công
với con người đến thế mà vẫn bị
giống người nguyền rủa, khinh rẻ.
Tiếng mèo kêu rất hiếm khi nghe thấy, một
đôi lần trên mái nhà… Tiếng dế kêu tỉ tê, năn
nỉ ngoài hè sân kia, chẳng
hiểu sao lại khiến thầy cảm nhận ra màn đêm
đang bao phủ trần gian và h́nh như c̣n có cả ánh
trăng đang rọi chiếu. Ôi! Ánh trăng vàng từ
thuở ấu thơ, đêm đêm theo ta lớn lên len vào
giấc mơ, như thuốc mê làm dịu cơn đau
người bệnh khi ta trực đêm canh giấc cho
bệnh nhân sau ca mổ ở nhà
thương Thanh Hoá!
Và tiếng gà! Tiếng gà vang
lên trong xóm. Thầy nôn nao nhớ nhà, nhớ ông bà, cha
mẹ… Nhớ buổi sáng nào thầy được
đánh thức dậy khi sương sớm c̣n lăng đăng
ngoài trời, trước sân; con
gà trống đập cánh bên chuồng trâu, gà mẹ dẫn
bầy gà con tục tục ra vườn kiếm
ăn… Bà nội con đă thức dậy từ canh tư.
Ngước nh́n trăng già cuối tháng trên mái bếp,
lơ lửng phía đông ngoài
biển kia mà cứ tưởng đâu mảnh trăng
liềm đầu tháng ngây thơ tinh nghịch, đồ
chơi của con trẻ bỏ quên đi c̣n rớt lại
chiều tối qua trước
sân nhà... Bà nhen bếp lửa sớm, gói sẵn đùm xôi
nếp để con trai mang theo đi đường lên
tỉnh học. Bà bảo, họ Mai nhà ta xưa,
Cố ông đậu tới Thám hoa, ngày nay con gắng
chăm học để đậu lấy cái bằng Thành
chung, đừng để người đời chê
cười, mang tiếng là con cháu ḍng họ Nho gia... Và
thầy đă không phụ ḷng cha mẹ. Cái năm Mậu
Dần 1938, cả tỉnh Thanh chỉ
có ba người đậu đíp-lôm; thầy là một
trong ba người đó…
Khi chọn nghề, ông nội
muốn con ḿnh làm nghề giáo, dạy chữ cho con cái nhà
người, may c̣n được khoẻ nhẹ thân xác… Bà th́ lại mong con ḿnh học
nghề y, làm ông đốc tờ chữa bệnh cứu
người. Dạy học và chữa bệnh, hai nghề
vốn bẩm sinh, lưu
truyền đă bao đời, phụng sự cho dân ta,
nghề nào cũng hiền lương cứu
độ cả. Vậy mà, có ai ngờ đến cái
thời buổi trời long đất lở này lại
lật ngược, đánh tráo cả Chân, Thiện, Mỹ:
chữa bệnh cứu
người mà lại quy thành đổ bệnh, giết
người!
Làm
nghề giáo vậy mà ít nguy hiểm hơn. Thế mới
biết ông nội con là
người nh́n xa thấy rộng!
Thầy lại khóc,
lại thương cho thân ḿnh, vợ con ḿnh.
Khóc hết hơi, cạn
nước mắt rồi đờ đẫn nh́n quanh
pḥng giam. Những ngày đầu
mới bị bắt, họ nhốt giam thầy ở cái
điếm canh; sau đó, suy tính thế nào họ
lại chuyển thầy tới chỗ này. Đây chính là
đ́nh làng xưa, nơi các bậc tiên chỉ cùng dân làng
hội họp, lễ tết… Cái đ́nh này c̣n tồn
tại đến bây giờ đă trở thành hiếm hoi, bởi khắp
nơi xứ Thanh Hoá, từ khi Dân chủ Cộng hoà
lên, người ta đă đập phá cho kỳ bằng
hết. Một mái bên đă sạt
lở hư hại, c̣n lại cái pḥng xưa kín như
bưng của ông Từ giữ đ́nh, coi kho là vẫn y
nguyên. Tường gạch dày chắc, cột lim tṛn to
đùng, cánh cửa lim c̣n lớn và nặng bằng mấy
cửa nhà ta… Chọn nơi này làm pḥng giam nhà tù, mấy ông
bà Đội Cải cách quả là khôn ngoan sáng suốt.
Thầy miên man nghĩ tới
những nhà tù của thực dân, đế quốc. Những tên gọi dẫu
xa lạ, đă mấy ai trông thấy, mà sao vẫn gần gũi quen thuộc: Hoả Ḷ,
Côn Đảo, Lao Bảo, Kontum, Sơn La, Ban Mê
Thuột, Thừa Phủ, Vinh… Một số người
quen biết, thân thuộc của ḿnh cũng đă bị tù
đày ở những nơi ấy. Cụ Đinh
Chương Dương, cụ Trần Thị Nam, ở
nhà tù Hoả Ḷ. Cụ Đinh Chương
Dương, bị Pháp cắt gân chân; cụ Trần
Thị Nam có người con duy nhất là Trần Nhu,
từ Liên Xô về nước cũng bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo và chết
ở ngoài ấy… Cụ Dương mới mất gần
đây. Cụ Nam vẫn c̣n sống. Và năm anh em
ruột họ Đào… Anh cả Đào Duy Anh vào nhà lao
Thừa Phủ, em trai thứ tư Đào Duy Dếnh ở
nhà tù Sơn La… Em trai thứ nh́ Đào Duy Phiên, em trai thứ
ba Đào Duy Kỳ và đặc biệt, cô em gái út Đào
Thị Đính, cả ba người
này đều bị đày ra Côn Đảo…
Làm sao có thể quên
mà không nhắc tới các anh Cao Hữu Duyệt,
Trịnh Hữu Thường, Trần Mai Ninh, Thôi Hữu…
Cả bốn đồng chí đều bị Pháp bắt
tù, đày Lao Bảo. Anh Duyệt vào Đảng từ đầu năm 1930, làm Bí
thư chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên
của trường Quốc học Huế. Chưa
học xong đệ tứ niên, mới 19 tuổi, chỉ
vài tháng sau đó bị Pháp bắt, xử án tù 9 năm,
đày lên Lao Bảo. Hai anh Trần Mai Ninh, Thôi Hữu là nhà
thơ, nhà văn nổi tiếng. Anh Trịnh Hữu
Thường, điềm đạm, sâu sắc, nhân
hậu… Ôi! Những con người quư giá vô ngần! Đă
được gặp các anh rồi th́ suốt đời không thể nào quên!
Nghe những
đồng chí này kể th́ thực dân Pháp nhốt giam họ trong xà lim, chuồng sắt,
dưới hầm sâu ḷng đất; vậy mà gặp cơ
may, được tổ chức, có người vẫn
vượt ngục thành công. Trở về giữa ḷng dân,
được dân giấu kín trong buồng, che chở
dưới hầm sâu bí mật, th́ cứ việc an tâm mà
hoạt động cách mạng, say sưa lạc quan
chiến đấu cho lư tưởng Cộng sản.
Đế quốc phong kiến
nào muốn truy lùng bắt giam họ lại cũng không
phải dễ!
Trường hợp anh Huỳnh Ngọc Huệ là một
minh chứng cụ thể. Vượt ngục Daklay
ở Kontum xong, trở về sống với đồng
bào Thượng, không chỉ được bà con nuôi
sống, họ c̣n giúp anh t́m đường
ra tới Thanh Hoá. Ở Thanh Hoá, thuận lợi hơn, t́nh
cờ và may sao, anh lại được bác Cao
Hữu Lẫm, anh ruột Cao Hữu Duyệt, cưu mang cất giấu trong nhà. Huệ
với Duyệt là đồng chí, biết quen nhau
từ hồi Huệ c̣n học trường Kỹ
nghệ thực hành, c̣n gọi
là trường Bách Công ở Huế. C̣n thầy và bác
Lẫm là đồng nghiệp, cùng là thầy thuốc
ở nhà thương Thanh Hoá. Tại nhà bác Lẫm,
trong thành Thanh Hoá, thầy đă được gặp các
anh Cao Hữu Duyệt, Cao Hữu Hiến, Huỳnh Ngọc
Huệ, Phạm Triều, Trần Mai
Ninh, Thôi Hữu… Cái t́nh của họ ḿnh đă thấy và
tiếp nhận. Cái ḷng của họ ḿnh đă cuốn
hút theo từ những tháng năm ấy…
Phải kể cho con
biết thêm về người vợ hiền của bác
Lẫm - Nguyễn Thị Chinh, người đàn bà xứ
Huế nhân đạo, thâm trầm, kín
đáo, có lẽ không biết ǵ mấy về chủ
nghĩa Cộng sản, thầy e chừng vậy, mà
vẫn coi những đồng chí của em trai chồng
ḿnh như người thân yêu
ruột thịt, nuôi giấu họ trong nhà… Giữa
thời buổi đen tối hiểm nghèo ấy mà có
những người tự nhiên dám sống như thế thật sự là những
người can đảm!
C̣n bây giờ… cái
người khi không trở thành có tội với dân, kẻ thù của Đảng như Mai Duy
Vỹ đây, th́ đành chịu cứng, chỉ c̣n
biết nằm yên chờ… ngày Đội tới dẫn
đi cho ăn “viên kẹo đồng”!
Mà đâu phải
chỉ riêng thầy, bác Trần Vĩnh Quyền, Chủ
tịch xă bị bắt nhốt giam bên Nga
Phú kia, cách mấy cây số đường chim bay chắc
cũng đang nghĩ như thầy: Đây mới chính là
Địa ngục Trần gian, nơi cùng trời cuối
đất, chỉ c̣n mỗi con đường đi qua
thế giới Bên Ấy…
Mấy ngày trước khi
bị bắt, chẳng biết nguồn tin nào từ đâu ra đến tai thầy.
Bác Nguyễn Xuân Thuư,
Thường vụ Tỉnh uỷ, cựu tù Côn Đảo
những năm 30, bây giờ cũng trở thành một tên
phản động đội lốt Cách mạng, vừa
mới bị bắt, đă vào… tù!
Anh Đỗ Vân, bác sĩ,
Trưởng ty Y tế Thanh Hoá, cựu sinh viên Đại học Y khoa Hà
Nội, một thầy thuốc mà cả về nhân cách
lẫn tài năng, bố Vỹ của con rất mến
phục. Đỗ Vân là em ruột của Đỗ
Thị Xuyến, dược sĩ hạng nhất Đông
Dương; bà Xuyến là vợ của
luật sư Phan Anh, bộ trưởng…
Đỗ Vân bị kết
tội giết người hàng loạt bằng thuốc
độc và dao kéo, cũng đă bị bắt trói,
đưa vào… tù!
Anh Đặng Ngọc Khôi, bác
sĩ trẻ lớp sau thầy, nổi tiếng v́ bàn tay
phẫu thuật tài hoa, cũng bị kết tội cưa
chân, chặt tay hàng loạt các
chiến sĩ ngoài mặt trận và là thủ phạm
của mấy vụ giết hại các đồng chí lănh
đạo cao cấp đầy mờ ám hiểm
độc.
Khôi là con bác Đặng
Ngọc Thọ, y tá giỏi thời Pháp, đă từng làm
ở nhà thương Thanh Hoá, tính t́nh nhanh nhẹn bộc trực. Năm khởi nghĩa 1945,
nghe nói bác Thọ bị Việt Minh ta giết v́ tội danh
làm… Việt gian!
Khôi cũng vừa
bị tóm bắt vào tù cùng một đợt với
Đỗ Vân.
Chưa hết! Cao
Hữu Hiến, Trưởng ty Lao động Thanh Hoá
vừa mới bị bắt giam mấy ngày sau khi Nguyễn
Xuân Thuỳ vô tù. Chú Hiến ít hơn thầy
một tuổi nhưng vào Đảng sớm hơn,
từ những năm đầu 40. Bạn học cùng
trường Bách Công ở Huế với Huỳnh Ngọc
Huệ, em út của bác Cao Hữu Lẫm và bác Cao Hữu Duyệt… Chú Hiến đă hăng hái
tham gia cuộc biểu t́nh đón Gô-đa thời Mặt trận B́nh Dân, có
lần ngang nhiên lên Bến Ngự thăm cụ Phan
Bội Châu giữa ban ngày ban mặt, chẳng thèm
để ư ǵ tới bọn chó
săn mật thám của Pháp ŕnh rập quanh đó!
Chàng trai sôi nổi gan góc
họ Cao này đă từng đảm trách cương
vị quan trọng của Ty Liêm phóng trong những ngày
đầu Cách mạng tháng Tám,
truy đuổi lùng bắt bọn phản động
chống phá nền Dân chủ Cộng hoà non trẻ, tên
tuổi được nhắc đến như một huyền thoại trinh thám…
Người Cộng sản
trung thành cuồng nhiệt với lư tưởng Cộng
sản đă từng chịu
những đ̣n roi tra tấn trong lao Thừa Phủ, ngục
Kontum thời Pháp thuộc, bây giờ… được tính
công trả ơn bằng những ngón đ̣n thẩm
vấn quái lạ, những h́nh phạt khổ nhục học theo Tàu c̣n man rợ
ngàn lần hơn thực dân Pháp… Cải cách Ruộng
đất, Chỉnh đốn Tổ chức long trời
lở đất đă quy chụp cho đồng chí này
một tội danh mới chưa từng có trong lịch
sử nhân loại, chẳng mảy may ǵ liên quan đến
luật pháp của thế giới
- Chống Đảng và phá hoại Cách mạng!
Đột nhiên, h́nh ảnh các
đồng chí Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong,
Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ… hiện lên.
Hồi Cách mạng tháng Tám,
tại Pḥng Thông tin Thanh Hoá thầy được thấy
h́nh ảnh của những người này. Những
tấm ảnh của bọn Pháp ghi lại chân dung họ
trong tù gây cho thầy một niềm kính trọng thiêng liêng.
Đôi khi thầy vẫn cố tưởng tượng
h́nh dung ra những khuôn mặt đẹp cao quư của
họ mà ḷng ngập tràn vui sướng, tự hào. Ḿnh
với họ đều là đồng chí. Thầy tự nhủ. Đến
với Đảng Cộng sản khi đất
nước c̣n tối tăm nô lệ, họ là
những “nhà cách mạng” đúng theo nghĩa của ba
từ này, c̣n ḿnh đến với Đảng khi
nước nhà đă độc lập, tự do, ḿnh
chỉ là “người đi theo Cách mạng”. Bởi
vậy ḿnh sẽ không tiếc sức, tiếc của,
hiến dâng tất cả đời ḿnh cho Cách mạng
để xứng đáng với họ, xứng dáng
với danh nghĩa “đồng chí”… Cái ḷng thầy là như thế đó, con ơi!
CHƯƠNG 33
CHUYỆN
MỔ XẺ THỜI CHIẾN TRANH
CHỐNG
PHÁP. NHỮNG CA MỔ RUỘT THỪA
ĐẦU
TIÊN CỦA BỐ VỸ, NGƯỜI THẦY
THUỐC TÀI
HOA ƯU TÚ
Có một lần mẹ
của con dằn dỗi về chuyện lâu nay chồng ḿnh bỏ bê con cái, phó
mặc việc nhà cho bà ấy.
“Ông đâu có thương
vợ con, mẹ nói, ông chỉ xót cho vợ con nhà
người thôi; việc nhà th́ nhác, việc chú bác th́ siêng… Bệnh viện mới là nhà của
ông, nhà mẹ con tôi chỉ là cái quán trọ để
ông ghé về ăn cơm… Có hôm vợ con chờ suốt
cả ruột, cơm th́ nguội lạnh, thịt cá thiu
thối, ông cũng không chịu về ăn, ông c̣n xách túi
đi khám bệnh chích thuốc cho người ta, ông c̣n
mắc họp. Thiên hạ đau, đồng chí đau th́
ông thương xót lắm; c̣n vợ con ở nhà đau th́
ông bảo không can chi, uống ít viên thuốc, chỉ vài hôm thôi là khỏi… Tôi xem ra cái phúc
nhà này lớn lắm
đấy!”
Mẹ nói rồi khóc lóc.
Thầy muốn điên lên. Thầy nghiến răng
đấm ngực la: “Trời ơi, bà muốn cho tôi
sống hay là giết tôi đi! Con bệnh đang cơn đau, tôi không khám chữa chích
thuốc, bỏ mặc đó để người
ta chết à? Cuộc họp có mặt các đồng chí
đông đủ cả, không lẽ thiếu vắng ḿnh
tôi sao? Bà có đi họp thay cho tôi
được không?”
Mẹ gào lên: “Họp sống
họp chết, họp cái chó ǵ họp lắm thế? Sao
lâu lâu không bớt đi vài cuộc họp ở nhà cho
vợ con nhờ?”
Thật quá thể! Quá thể!
Có ai đời vợ ḿnh lại ngoa ngoắt, tục
tằn xúc phạm chồng đến thế, lại c̣n to
gan động chạm tới đoàn
thể, chính trị nữa. Thầy mới vung tay tát cho bà
ấy một cái. Cái tát mạnh đến nỗi
mẹ ngă ngửa, đầu đập vào cây cột,
ngất xỉu dưới
nền nhà…
Từ dạo lấy nhau
tới giờ, đây là lần đầu tiên vợ
chồng căi cọ to tiếng. Cũng là lần đầu
tiên trong đời thầy đánh người, mà đánh ai, đánh vợ ḿnh! Ôi
khốn khổ, khốn nạn!
Thầy đùng
đùng bỏ nhà, ra ngoài đường đi một ḿnh
giữa ơn giông. Gió quất liên tiếp
những roi mưa vào mặt; nước mắt trời tuôn hay lệ ai đang
xối xả ướt đầm hai hốc mắt, g̣ má
hơm hóp lâu ngày thiếu ngủ? Đứng lại
giữa đường, đưa hai tay vuốt, thầy
mới sực nhớ ra là ḿnh đă quên tấm ni lông che
mưa ở nhà.
Cũng may, lại đúng lúc
bệnh viện cho người tới nhà t́m thầy lên
mổ ca cấp cứu cho một bệnh nhân chẩn
đoán đau ruột thừa. Thầy gặp anh lao công.
Cả hai che chung tấm ni lông lên đầu cùng vội vă
đi.
Ca mổ trầy trật
cả tiếng đồng hồ. Mổ xong, thầy
nằm vật ra giường ngủ thiếp đi như
vừa bị đánh thuốc mê…
Hồi
ấy, những năm 48-50… khái niệm mổ xẻ kinh
hoàng rùng rợn lắm, con ơi!
Người ta chỉ dám
nghĩ tới chuyện cắt cục amiđan trong
họng. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp không cầm
được máu, bệnh nhân
đành phải chịu chết. Thuốc men quư hiếm,
công cụ y tế thô sơ, kỹ thuật mổ
xẻ c̣n yếu kém lắm. Bệnh viện không có
điện, không có máy phát điện. Tại bệnh viên
“Cổ Định” - Nông Cống, để soi khám hai
cục amiđan trong họng, người ta phải dùng
tới ánh đèn xe đạp.
Thầy kể cho con nghe nhé. Một y tá cầm pêđan xe đạp quay mạnh để
b́nh điện cọ vào lốp xe làm cho đèn xe bật sáng…
Đèn xe được đặt trước mặt
bệnh nhân; bệnh nhân há mồm to ra để bác sĩ
ngồi phía sau đèn nh́n vào… khám xét hai tên lính gác thực
quản và phế quản. Giáo sư bác sĩ Trần
Hữu Tước từ Pháp về cùng với những
người học tṛ ưu tú của ông, các bác sĩ, đều
làm việc trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn như vậy.
Cưa cắt tay
chân thương binh, người bị tai nạn chiến
tranh là điều người ta có
thể hiểu và chấp nhận. C̣n chuyện lên bàn
mổ nằm để bác sĩ cầm dao rạch
bụng… ít ai dám nghĩ tới, cầm bằng cái chết
chắc chắn chín mươi phần trăm, coi như
là… định mệnh!
Nhiều người lên
cơn đau ruột thừa không có ai khám và mổ cho
đành phải ôm bụng chờ chết. Vũ Hồng
Côn, học sinh trường Cấp 3 Lam Sơn, cậu con
trai dễ thương thông minh của nhà văn Vũ
Ngọc Phan và nhà thơ Hằng Phương đă chết
v́ căn bệnh ruột thừa; một bằng chứng
đau thương của y tế nước ta thời chiến tranh chống Pháp!…
Thuở nhỏ, thầy
rất sợ máu. Những ngày giỗ tết, không dám
cầm dao cắt tiết, mổ bụng gà vịt, cứ
phải để cho anh Nuôi và chú Đông làm công việc
khủng khiếp đó. Khi học ở trường Y khoa
Hà Nội thầy cũng chỉ được đôi
lần đứng phụ mổ đưa bông băng dao kéo cho bác sĩ
người Pháp.
Cuối năm 1946, toàn
quốc kháng chiến, thầy phải ra mặt trận
để phục vụ các chiến sĩ Vệ Quốc
quân. Cái cảnh thương binh ùn ùn khiêng chở từ
mặt trận về nằm la liệt ở Quân y viện
thật không tài nào kể
xiết. Máu chảy chan hoà nước mắt… Không cưa
chân, không cắt tay làm sao được! Cưa cắt may
ra anh em họ c̣n sống! Mà đâu chỉ chân tay,
đầu cổ, lưng ngực… Tất cả những bộ phận sinh ra
để cho con người ta sống, chiến tranh
đều dùng tới Cái
Chết để huỷ hoại, tàn sát! Nh́n thấy
ruột gan trong bụng thương binh ḷng tḥng
xổ ra, dù có rùng ḿnh kinh hăi, cũng
phải mau mau bắt tay vào cắt hớt, may khâu lại…
Phải làm tất cả
để dành lại Cái Sống cho đồng chí,
đồng bào!
Những lần đầu
thầy cũng run tay, đêm tới chợp ngủ chỉ
mơ thấy toàn máu… là máu.
Vậy rồi mà, chỉ
mấy tuần trôi qua là bắt đầu quen với máu, nói cho đúng hơn, là thuận
tay, lên tay mổ xẻ. Tất cả chỉ v́ tấm ḷng thôi, con ơi!
Thầy thương
các đồng chí, chiến sĩ, một t́nh thương
chưa từng bao giờ thấy, ngay
cả đối với vợ con gia đ́nh… Tổ
quốc và Cách mạng đă sinh
ra Mai Duy Vỹ một lần thứ hai và hun đúc t́nh thương
ấy trong con người thầy thuốc! Phải
cứu những anh em đồng chí khỏi cái chết,
giành lại mạng sống, đưa họ về
với gia đ́nh vợ con!
Những ánh mắt, lời nói
tỏ ḷng biết ơn khâm phục của thương bệnh binh và các bạn
đồng sự trong Quân y viện đă giúp thầy quên bao mệt nhọc,
thức thâu đêm suốt sáng cầm con dao mổ…
Quân y viện trưởng
Trần Thế Đức, bác sĩ tốt nghiệp
đại học Y khoa Hà Nội… lớn hơn thầy
cả tuổi đời, tuổi nghề, học rộng biết nhiều, bác sĩ
Đức già dặn về bệnh lư nhưng không hiểu
sao lại non tay về phẫu thuật? Về quan
hệ nghề nghiệp thầy là cấp dưới, là học tṛ của ông ấy.
Từ chỗ dè dặt trong cách cư xử, dần
dà Đức mến thương thầy như
người thân ruột rà… Sau này, trong
một lần giao tiếp, bác sĩ nói: “Anh Vỹ, anh có qua
lớp phẫu thuật với một giáo sư nào
không? Có biết bác sĩ Lơ-roa-Đề-ba ở Hà Nội không?” Thầy lắc
đầu cười nhũn nhặn. Thế th́ lạ
thật đấy. Đức tần ngần nh́n
thầy. “Anh đưa bàn tay tôi xem… Đúng là có hoa tay, tiếc cho anh chưa
được học lên”…
Ca mổ ruột thừa
appendicite đầu tiên, thứ nhất trong đời
thầy không phải dành cho ai khác mà chính là Trần Thế
Đức. Thật kỳ lạ. Nhớ lại ngày hôm
ấy… Đức lên cơn đau bụng sau buổi ăn trưa, quằn
quại tới chiều và tự chẩn đoán ḿnh đau
ruột thừa. Dạo
ấy thầy chỉ quen cưa tay chân, chưa một
lần mổ bụng ai và cũng chỉ mường
tượng… về cái ruột thừa. Thời Pháp,
chỉ có các bác sĩ mới được cầm dao
mổ. Một y sĩ như thầy làm sao dám đụng
tới! Quân y viện trưởng động viên thầy:
Anh Vỹ, mạnh dạn lên, không sao đâu! Anh không mổ
th́ tôi cũng chết. Mổ đi! Tôi tin anh làm được. Tôi chịu trách nhiệm.
Đức lại c̣n khôi hài: Th́ cũng như mổ gà, cắt cái khúc ruột ấy
bỏ đi, thế thôi… Anh đă mổ gà nhiều
lần chưa? Thầy thú thực rằng chưa, hồi
nhỏ rất sợ cắt tiết, mổ ḷng gà vịt…
Ca mổ
được tiến hành vào 8 giờ tối.
Số phận dành cho
đời thầy những món quà tặng về ban đêm. Ban đêm khi đầu óc con
người ta phần nhiều mệt mỏi, lầm lẫn
th́ đầu óc thầy chẳng hiểu sao lại thông
suốt, bàn tay lại khéo léo chuẩn xác lạ lùng.
Dưới ánh sáng của ba chiếc đèn pin tụ lại, thầy cầm dao
rạch phía bên phải bụng bác sĩ Đức và…
thật kỳ lạ, cái ư nghĩ ruột
người ta cũng giống như ruột gà làm cho thầy tỉnh táo, chẳng mấy
chốc t́m ra ngay cái ruột thừa ẩn núp, bám đeo
vào…
Trông nó như
một tên tội phạm lẫn trốn, bị truy t́m ra
rồi mà vẫn cho rằng ḿnh vô
tội. Tôi cũng là một bộ phận của con người, làm ra con người.
Tạo Hoá chẳng đă cùng sinh ra một lần cho
con người hay sao? Vậy mà các người chưa
hiểu đầy đủ về tôi!
Có tiếng nói nào bên
trong vang lên… Bàn tay ai sinh ra lỡ như
có 6 ngón, sao các người không cắt ngón thứ 6 đó
đi! (Thật bất công
và vô lư!).
Nhưng ruột
thừa ơi, mày đă làm mủ rồi và đang gây ra cái chết
chắc chắn cho con người. Hiểu chưa? C̣n ngón
tay thứ 6 kia, nó xấu xí và vô
ích thật đấy, nhưng nó lại không gây ra hiểm
họa như mày; dẫu rằng nó cứ phô ra
trước mặt mọi người chẳng cần che giấu th́… chúng ta cứ
để yên cho nó tồn tại!
Đời là vậy! C̣n
biết bao nhiêu cái thứ 6 quái gở, cấn cái,
vướng víu cho con người, e rằng có khi con
người chết rồi đă chắc
ǵ nó sẽ chết theo?
Thầy cắt cái
ruột thừa đó quả quyết và nhanh gọn c̣n
dễ hơn
người ta hái đi một quả thối trên cây.
Chiều hôm sau, khi đă
tỉnh táo hẳn, bác sĩ Đức nói với thầy:
Tôi nói có sai đâu. Anh cắt ruột thừa c̣n dễ
hơn mổ bụng gà. Đôi
mắt hiền hậu thâm trầm sáng lên, bàn tay ông ấy
đặt lên bàn tay thầy. Anh đúng là một
thầy thuốc bẩm sinh, trời phú… anh Vỹ ạ.
Sau này kháng chiến thành công, c̣n sống trở về Hà
Nội, tôi sẽ kể cho vợ con nghe. Chúng nó sẽ ghi
nhớ, đền ơn anh…
Bác sĩ Đức có hoàn
cảnh hơi éo le. Cô vợ trẻ đẹp của ông nghe nói là con một gia đ́nh giàu có
ở Hà Nội. Gia đ́nh theo bác sĩ chạy
giặc, tản cư vào tới Thanh Hoá. Đời
sống ở hậu phương, vùng tự do lúc ấy gian khổ không sao chịu
đựng nổi đă khiến họ phải quay
trở lại Hà Nội “dinh tê” vào Thành. Cuộc chia tay
diễn ra… Bác sĩ Đức một ḷng đi theo Quân
đội, ở lại với Cụ Hồ. Chắc ông ấy buồn khổ lắm.
“Chiến tranh là
chiến tranh”. Bác sĩ nói với thầy bằng tiếng
Pháp. “Con người chẳng phải là ma quỷ, cũng
chẳng phải thánh thần. Anh Vỹ ạ, khi
giết người, có ai nghĩ mạng người là
thần thánh đâu. Giết là
giết! Thế thôi!
Người thầy thuốc
giàu t́nh cảm thôi chưa đủ, anh ta c̣n phải
mạnh mẽ về lư trí. Bởi thế, đôi khi
rất khó chữa bệnh cho bản thân và người nhà;
ấy là chưa nói tới cầm dao mổ cưa cắt, phẫu thuật chính vợ con ḿnh…
thường những lúc ấy anh ta phải nhờ
người khác làm hộ. Bọn ḿnh ở chiến
trường lại càng phải đ̣i hỏi cao. Chỉ
thương cảm xúc động anh em thương binh
thôi mà thiếu tỉnh táo, thậm chí đôi khi c̣n phải
lạnh lùng nữa, chứ không th́ công việc hỏng
hết!”
“Chiến tranh là chiến
tranh”. Bác sĩ Đức nhắc lại câu tiếng Pháp
với nụ cười buồn bă.
Ông
ấy là một con người hoàn thiện hơn thầy
nhiều do có được đức tính điềm tĩnh đôi
khi đến lạnh lùng đó.
Có
lần, thấy thầy khóc bên giường một anh
chiến sĩ đă chết v́ vết thương quá
nặng ở ngực, máu chảy cạn kiệt… bác sĩ
yên lặng đứng một lúc lâu rồi nhẹ nhàng
đặt tay lên vai thầy. “Đồng
chí Vỹ”. Bác sĩ nói. Hai tiếng “đồng chí” làm
thầy nhớ lại, cả hai người,
thầy và ông ấy cùng được kết nạp
Đảng vào dịp cuối năm 1948, lúc mọi
người đang chuẩn bị ăn Tết Xuân Kỷ
Sửu. “Đồng chí Vỹ! B́nh tĩnh nào. Chúng ta c̣n
nhiều việc phải làm.” Rút tay ra khỏi vai, thầy
c̣n nghe tiếng thở dài sâu kín của bác sĩ.
Thầy
có một người bạn đồng nghiệp,
người anh đáng quư đến như thế.
Tiếng
vang về những ca mổ ruột thừa của
thầy lan truyền đi khắp các đơn vị,
khắp tỉnh Thanh. Có người gọi thầy là Hoa
Đà tái thế, là Tôn Thất Tùng của Thanh Hoá.
Bác
sĩ Viện trưởng cũng vui lây cái vui của
mọi người. Ông ấy cũng cầm dao mổ, bởi v́
không mổ cũng không được, con số
thương binh mỗi ngày một nhiều.
Một
lần xong ca mổ, rửa tay xà pḥng, Đức gật
đầu cười nói: “Có anh Vỹ đứng bên, tôi
mới thực sự yên tâm cầm dao đấy, các
đồng chí ạ. Chúng tôi là cặp anh em song sinh mà!”
Cả
pḥng mổ, anh chị em y tá cười theo. Ôi! Những
giây phút đầm ấm t́nh
người, t́nh đồng chí… làm thầy quên đi
tất cả nỗi mệt nhọc lo lắng trên
đời. Những giây phút sáng tươi, hạnh phúc.
CHƯƠNG
34
CA MỔ RUỘT THỪA CHO JACQUES,
HÀNG BINH PHÁP. PHÚC HOẠ KHÔN LƯỜNG
Có một
lần, lần này khá đặc biệt; ấy là ca mổ
ruột thừa cho một hàng
binh Pháp tên là Jacques, con một nông dân nghèo ở Provence.
Ông nội bị bọn Đức giết hồi
chiến tranh thế giới
lần thứ nhất. Jacques chỉ mong sao chiến tranh
Việt Nam mau kết thúc để trở về quê
hương. Giữa năm 1948, Jacques
bỏ quân đội Pháp, chạy sang hàng ngũ ta,
được đưa từ Hoà B́nh về… Jacques không muốn cầm súng
nữa, và thể theo nguyện
vọng của anh hàng binh Pháp, Chính uỷ Trung đoàn
sắp xếp cho anh ta được làm “y tá” ngay trong
đơn vị của thầy. Y tá là nói cho vui, cho ra
vẻ, cũng như Toành, khiêng
cáng, băng bó là chủ yếu. Và Jacques đă làm
việc hết ḷng, không tiếc sức…
Chẳng
biết Quỷ xui Trời khiến thế nào, ca mổ cho Jacques cũng
là… ruột thừa!
Bước
vào pḥng mổ bác sĩ Đức nhún vai, cười nói:
“Anh Vỹ, ca mổ này
chúng ta phải hoàn thành thật tốt, không chỉ
để cho nhân dân Pháp thấy rằng, dù cuộc
chiến tranh đẫm máu do chính họ gây ra trên
đất nước ta, chúng ta vẫn không đánh mất
đi t́nh cảm con người, t́nh hữu nghị
giữa hai dân tộc. Mà c̣n hơn thế, để cho
nước Pháp của Louis Pasteur, Alexandre Yersin hiểu rằng, những công lao và
tri thức của các thầy thuốc Pháp ở
trường Y khoa Hà Nội không phải là uổng phí”.
Sau ca
mổ, được cứu sống, cái t́nh cảm
của Jacques đối
với những người anh em Việt Nam quả là không
kể xiết. Hai lần thoát chết, cái ơn nặng
trên đầu, trên vai anh hàng binh Pháp khiến chàng ta
nhiều khi không kiềm chế được xúc
động. Thấy thầy ở đâu, Jacques cũng muốn dừng
lại để… nói chuyện!
Trong
đơn vị bộ đội chỉ có bác sĩ
Đức và thầy là nói chuyện
được với Jacques bằng tiếng Pháp.
Y
tá Toành nhiều lần bắt gặp Jacques và thầy chuyện tṛ.
Mặc dù chẳng
biết lấy một chữ Tây, Toành đôi lúc vẫn cố
t́nh kéo ghế ngồi sát bên hóng
chuyện, theo dơi…
Đó là
chứng cớ Trời cho, Đội khiến để
sau này Toành tố giác thầy trên
đấu trường:
“Vỹ! Chính mi đă
nhiều nần âm mưu thông đồng với Pháp!
Ngày
xưa Pháp dạy mi lói tiếng Tây để mi giao dịch
với chúng ló, rồi nại c̣n dạy mi cầm dao mổ
để rạch bụng, giết hại chiến sĩ đồng bào ta! Có
đúng không?
Chính mi
đă nhiều nần lói chuyện với thằng Tây
Giắc. Mi lói ǵ hồi ấy mi tưởng tao không
biết hả? Thưa bà con lông dân, thằng Vỹ với
thằng Tây Giắc, hai đứa cùng giơ cao tay nên
trời như thế lày lày, xong rồi nại c̣n cúi
đầu chọc chọc hai ngón tay xuống đất.
Rồi cười hà hà! Cười cái ǵ? Cười cái mả
cha chúng bay hả? Chúng ló nại
“ùm ùm oàng oàng” ra hiệu thông đồng với nhau,
báo cáo mật cho Tây ló biết, để Tây ló đưa máy
bay đến bỏ bom vào
đơn vị quân đội chúng ta đấy bà con lông
dân ạ. Bà con có biết
không? Thế lày chứ… Có nần thấy tôi đến bên
thế nà hai đứa im bặt, nấm nét
đưa mắt nh́n nhau. Tôi mới nghĩ... Chúng mày
giấu nàm sao lổi tao, có mà ông đi guốc vào trong bụng chúng mày! Tao biết hết!
Thưa bà
con lông dân, quân Chủ nực của Cách mạng! Thằng Vỹ ló cấu kết
với đế quốc Pháp để giết hại bà
con như thế đấy
bà con ạ!”
“Đả
đảo! Đả đảo!”
Tiếng
đả đảo vang lên, trời long đất lở khắp cả đấu
trường.
Thầy
ngẩng đầu lên nh́n Toành, mặc dù lệnh của
ông Đội trưởng và yêu cầu của Quân Chủ
lực Nông dân là “tên Vỹ phải cúi đầu xuống”.
Thầy
nh́n Toành bằng ánh mắt ngạc nhiên hơn là căm thù. Có thể cái hôm ấy lúc kéo
ghế ngồi bên cạnh Vỹ và Jacques, Toành đă tin một cách thành thật
và ngây thơ như thế chăng? Ừ có thể lắm. Ôi trời cao
đất dày! Địa ngục Trần gian này thật
đen tối man rợ khôn
cùng!
Toành cúi
đầu xuống, tránh cái nh́n của thầy. H́nh như anh ta nhận ra chẳng phải riêng
thầy mà chính ḿnh nữa, đều là những con
người. C̣n con quỷ vừa sinh ra, mới trỗi
dậy trong người Toành, th́ chính anh ta cũng không
biết nó ở đâu ra, từ đâu
tới? Và Toành luống cuống…
Nhưng
rồi nghĩ cho cùng th́ Toành cũng chỉ là loại kư
sinh trùng ăn theo bé li
ti, đă thấm tháp nhầm nḥ ǵ so với bọn khổng trùng kư sinh khủng khiếp
cỡ Lê Xuân Tái, người cầm đầu công cuộc Cải cách Ruộng
đất trời long đất lở của cả Thanh
Hoá quê ta!
Tái quê
đâu ở Thiệu Hoá, nguyên là anh cấp dưỡng
bếp núc cho mấy ông Tỉnh uỷ, mới qua khỏi
nạn mù chữ, được Đội bồi
dưỡng kết nạp Đảng, bỗng nhiên
vụt dậy như một hung thần, giương cao
liềm búa của hai Bác Xít-Mao, giáng Cái Chết xuống
đầu các bậc tiền bối Cách mạng, vô
hiệu hoá loại trừ tất cả các cựu
đảng viên Cộng sản ra khỏi hàng ngũ
đồng chí, xua đuổi tống cổ sang hàng ngũ
bè lũ quân phản động chống Đảng, phá
hoại Cách mạng!
Tái
trở thành Thần Chết, nỗi lo sợ khủng
khiếp của toàn thể cán bộ đảng viên
tỉnh Thanh Hoá.
Mọi
cử động hành vi của hắn: lắc đầu,
gật đầu, xua tay, mím môi, nhăn mặt, hắt
hơi, cười kh́, trợn mắt… và nhất là chữ
kư ngoằn ngoèo, ṿng lên hay
quặp xuống như con sâu, con ốc… đều có
ảnh hưởng quyết định tới số
phận sống chết con người.
Ấy là chưa kể tới
những tên đồ tể lừng danh mà Trời nghe Trời cũng giật
ḿnh: Đặng Thí trong Liên Khu Tư, Hồ Viết
Thắng ngoài Trung ương… Mấy anh này có thể
ngủ gật, vừa chơi cờ tú lơ khơ mà… kư
duyệt án tử h́nh cả mấy cái cùng một lúc!
Vậy
th́ để bụng, trách cứ làm chi cái thứ y tá Toành
này!
“Đả
đảo! Đả đảo! Có khổ nói khổ nông
dân vùng lên! Vùng lên!”
Chẳng
có ai đứng lên bảo vệ cho Mai Duy Vỹ cả.
Jacques đă hồi hương
về Pháp sau Hiệp định Genève.
Bác sĩ
Đức về lại Hà Nội thủ đô. Trong
một bức thư gửi tay thầy nhận
được ông ấy báo tin mừng ḿnh đă về
kịp, đúng lúc vợ con “đang bị địch
cưỡng ép” xuống Hải Pḥng, di cư vào Nam. Vợ chồng tái hợp.
Hạnh phúc, sung sướng…
“Nhà
tôi gửi lời kính thăm anh. Cháu Hà, con gái tôi, nhắn mời chú Vỹ ra
chơi. - Bác sĩ viết - Chúng nó dành riêng một pḥng trên gác 3 để chú Vỹ nằm và
nghỉ ngơi. Ở phố Hàng Bông này dẫu có lúc ồn
v́ người xe qua lại, nhưng pḥng nghỉ khuất
vào phía sau, trên cao, rất yên tĩnh… Nga Sơn - Hà Nội
cách nhau chẳng bao xa. Vỹ ra
chơi, Vỹ nhé! Chúng tôi chờ!…”
“Đả đảo!
Đả đảo!”
Quanh ḿnh
thầy chỉ thấy những nắm đấm, gậy
gộc, dây thừng, giáo mác, súng trường giơ lên.
Bầu trời đầy mây, sũng nước. Trời
sắp mưa. Từng tia chớp rạch da trời,
bật loé những vệt máu.
Sự thật - Chân lư cũng chỉ loé lên rồi tắt.
“Đả đảo! Đả
đảo!”
“Muôn năm! Mu…uôn…
Nă…ăm!”
CHƯƠNG
35
THỊ KÍNH VÀ CÁI RÂU MỌC NGƯỢC.
MAI DUY VỸ VỚI CÁI RUỘT THỪA
Thầy
trở ḿnh, nghĩ miên man. Trần gian này sao nhiều cái “Thừa” thế nhỉ?
Nhớ
chuyện bà nội con kể… Ngày xưa Thị Kính v́ quá yêu
chồng, thấy
chồng có cái râu mọc ngược trên cằm, cầm dao
bổ cau đưa lên định cắt cái râu mọc vô
tổ chức, thiếu ư thức kỷ luật đó, th́
ông chồng đang ngủ gà ngủ gật tự nhiên
giật ḿnh mở mắt ra.
Hắn ta la toáng lên. Rồi cả nhà hô hoán. Thế là
Thị Kính chịu cái oan tày trời: Giết
chồng! Con dao cau đây! Tang chứng rành rành đây!
Hồi
ấy thầy mới lên 8 tuổi. “Tại sao cô Kính không lấy cái nhíp nhổ râu cho chồng như
thầy vẫn nhổ râu, hở mẹ?” Câu hỏi ngây thơ của bố Vỹ lúc ấy
không chỉ làm cho bà và ông nội con cũng ph́
cười. “Thời xưa ấy làm ǵ có nhíp. Người
lớn thường nhổ râu bằng cách cấu hai
đầu móng tay vào chân râu rồi
giật… Các bà nhà quê đôi khi lại lấy hai hạt thóc
nhám kẹp lại nhổ
tóc sâu tóc bạc cho nhau. Cái kẹp, cái nhíp nhổ râu… ờ
h́nh như từ lúc thằng Tây nó sang đô hộ ta
mới có…”
Sau
này, có lần cầm tới cái pince kẹp bông băng,
gắp kim tiêm, động tay tới con dao mổ… thầy lại
bâng khuâng nhớ tới Thị Kính. Ả ta đúng là
một người thật thà, vụng dại, có thể
nói là ngu nữa mới chuốc lấy cái oan tày trời
đó.
Ḿnh
đâu có ngu dại như Thị Kính? Cái râu mọc
ngược th́ kệ mẹ
nó, đụng đến làm ǵ. Cũng như cái ruột
thừa, nó đang b́nh thường tự nhiên th́ cứ
để nó yên vị, khi nào nó sưng thối mới rạch bụng người
mà cắt bỏ đi chứ!
“Nhưng
mà… bố Vỹ ơi! Có ai đây vừa lên tiếng căi
lại… Thị Kính cắt
râu v́ ả thấy nó mọc ngược, xấu xí, khó coi.
Ả yêu chồng, muốn làm đẹp cho chồng
đấy chứ! Mai Duy Vỹ cũng vậy thôi. Y sĩ
mổ bụng, cắt ruột thừa là để cứu
mạng sống cho con người. Ông ta thương
người, không muốn con người phải chịu đau khổ, tang tóc nên mới
cầm tới con dao mổ! Có đúng không?”
Thầy
lưỡng lự… Chưa biết nên gật đầu
hay lắc đầu?
Cái
tiếng ai vừa nói đó tưởng đă im rồi
lại cất lên:
“Thế
nhưng… đồng chí thầy thuốc kính mến ạ.
Cần phải nói cho rơ thêm.
Thị Kính mang cái án giết chồng mà rồi người
ta đâu có xử tử
h́nh! Thị chỉ phải vào Chùa nhẫn nhục tu hành
một thời gian. Và sau
khi chết già rồi lại c̣n được minh oan! C̣n
Mai Duy Vỹ th́ sao? Sau khi để người ta
đổ cái núi oan lên người, xâu vào cổ, ngoắc vào đầu…
rất có thể ngày mai đây, Đội Cải cách
sẽ ra lệnh cho các đồng chí Lê Trạch
Đông, Hĩm Xoa, C̣ Toe, y tá Toành…
tử h́nh, bắn chết!
Ôi!
Cái thời Thị Kính xưa phong kiến tối tăm u mê
vậy mà pháp đ́nh lại c̣n văn minh nhân đạo
hơn cái thời Dân chủ Cộng hoà đến thế!”
CHƯƠNG
36
MỔ RUỘT THỪA CHO THẰNG CU CON C̉
TOE. CÁI “NƯỠI CƯA” CỦA Y TÁ TOÀNH
Lại
ṿng vo Tam Quốc cùng Mao Chủ tịch bên Tàu sang tới Lê
Trạch Đông bên ta, cùng với các đồng chí bần
cố nông Hĩm Xoa, C̣ Toe, Toành… về với cái ruột
thừa của thằng cu con C̣ Toe mổ cắt tối hôm
đó.
Mổ
xong rồi, thầy dặn vợ chồng C̣ Toe,
người nhà bệnh nhân, cho
thằng bé uống nước cháo 3 ngày, sau đó ăn cháo
trắng dăm ngày nữa… để vết mổ
được hồi phục, trở lại b́nh
thường. Cái hồi đói kém ấy, dân ta ăn cháo
dăm ba ngày là chuyện b́nh thường,
có khó khăn ǵ mà không thực hiện được.
Nhưng chẳng hiểu sao, mới về nhà
được một hôm, bà con thương cháu, có ai đó
đă đem xôi và thịt lợn tới cho thằng bé
ăn. Nghe đồn, lại c̣n cho
ăn cả củ từ chấm mật nữa? Thế
là, thằng bé lên cơn sốt, ôm bụng quằn
quại. Ruột nó bục ra rồi, Trời cũng không
cứu được. May ra có Đội… Nhưng năm
1952 đó làm ǵ đă có Đội! Nó chết!
Thầy
đă mất công giải thích, mấy người trong
bệnh viện cũng hết lời khuyên nhủ… Vợ
chồng c̣ Toe xem ra đă có phần chấp nhận thông suốt. Cái số nó Trời
không cho sống, phải chết là… đúng thôi. Họ
bảo nhau vậy.
Nhưng
đến cơn Trời long Đất lở, sục sôi
Đấu tố này th́ bố mẹ thằng bé, vợ chồng C̣ Toe được y
tá Toành mớm, ông Đội trưởng bơm… lại
hùng hổ chồm lên, nhảy tới xỉa xói thầy…
“Vỹ! Mày giết con tao! Mày rạch
bụng nó ra, nhét vào trong bụng nó một lưỡi
cưa làm cho ruột đứt tung. Nó mới ôm bụng kêu la từ chiều tới
nửa đêm gần sáng rồi… chết?”
Thầy
ngạc nhiên không hiểu sao lại có chuyện nhét
lưỡi cưa vào trong
bụng? Lưỡi cưa ǵ nhỉ?
Nhất
Đội nh́ Trời! Bà con nông dân được
Đội phóng tay phát động, vùng lên đấu tố
th́ trí tưởng tượng ngày xưa có một… bà đẻ ra trăm
trứng… có một cái nỏ chỉ cần bắn phựt
một mũi tên là giết chết tới cả ngàn
thằng địch… cũng đều trở nên nghèo nàn vô vị.
Chứng
cớ là, thằng Vỹ nó ngồi ở Nga Sơn, giả
bộ cầm ống lắng úp lên ngực bệnh nhân nghe tim
mạch, nhưng thực ra là để bắt tin tức của
gián điệp ngoài Phát Diệm gọi vào!
Chứng
cớ là, máy bay Pháp có lần thả xuống sau
vườn nhà thằng Vỹ một quả bom câm; mở
quả bom ra trong đó có cả một
túi thuốc độc và một cái bị rất chi là to,
toàn truyền đơn với truyền đơn!…
Bà con nông
dân đă không nói th́ thôi, chứ đă nói ra rồi th́ cái ǵ
cũng đúng cả. Đúng thôi chưa đủ, c̣n là
Chân lư nữa. Ông Trời nghe, dẫu có lắc đầu
cho rằng sai, nhưng ông Đội gật đầu
bảo rằng đúng th́ cuối cùng… bà con nông dân, Quân
Chủ lực của Cách
mạng vẫn đúng!
Khi ngón tay trỏ của vợ C̣ Toe dí lên
trán thầy làm thầy mất cân bằng loạng
choạng suưt ngă ngửa, thầy vẫn ngơ ngẩn về chuyện cái lưỡi cưa
nằm trong bụng thằng bé. Thầy từ tốn xin phép
Đội được hỏi bà Toe xem cái lưỡi
cưa ấy là lưỡi cưa ǵ? Bà Toe ngớ ra, quay đầu nh́n lên mấy ông bà
Đội cầu cứu. Để gỡ bí nguồn
cơn rắc rối, y tá Toành đang ngồi ở hàng
đầu đám Quân Chủ
lực vụt đứng dậy la lên:
“Cái
nưỡi cưa của Pháp dùng để cưa cổ
mấy ống thuốc tiêm
ấy, chứ c̣n nưỡi cưa lào lữa! Nại c̣n
khéo giả vờ giả vịt!
Nưỡi
cưa ống tiêm thủy tinh, ló dài bằng hai đốt
ngón tay, mỏng
như cái ná núa… Vỹ! Mày c̣n chối lữa không?”
Đám
đông nông dân bần cố bỗng nhiên ồn ào.
À ra
vậy. Cái lưỡi cưa đựng trong hộp
thuốc của Pháp, có lần thầy nhờ Toành cưa
giùm một ống Quinoforme. Chẳng biết cưa thế quái nào mà ống tiêm th́
vỡ, mảnh vụn rớt ra bàn, rơi cả xuống
nền nhà. Tay chân anh ta lúc nào cũng… hậu đậu!
“Vỹ!
Mày đă nhét cái nưỡi cưa đó vào bụng
thằng bé, mày có chịu nhận tội không?”
“Dạ
có”. Thầy ngẩng đầu lên nh́n mấy ông bà
Đội. Những khuôn mặt bẩm sinh đă có cái vẻ
chai lỳ tự nhiên vốn chỉ để cho thần
thánh xui, ma quỷ khiến. Hơn cả thiên tai
địch họa, họ đă làm cho long trời và lở đất.
Khổng Tử, Lăo Tử… Tử ǵ đi nữa, có
sống lại, trước mắt họ rồi cũng
phải cúi đầu chắp tay lại: “Vâng, tôi ngu…”
Quay sang
nh́n Toành, chẳng hiểu sao thầy không căm ghét mà chỉ thấy thương
hại. Quả thật bọn đế quốc đă ban
phát cho Mai Duy Vỹ cả một kho tri thức, c̣n lũ
phong kiến th́ sao không san sẻ
bớt cho Toành lấy một ống ḅ, một bốc…
dăm hạt rơi văi gọi là những thứ đó.
Quả là bất công, phi lư! Cần phải
đạp đổ, phá sạch tan tành. “Du passé faisons table rase… Bien! Très bien”. Đúng!
Rất đúng!
Toành hoàn
toàn chẳng có lỗi ǵ khi sinh ḷng ganh ghét với ḿnh, c̣n
ḿnh th́ đúng là có tội!
Đă
sinh ra bất công rồi th́ phải san bằng, cào lấp,
tiêu diệt bất công
cho đến khi nào trên đời này chẳng c̣n bất
công nữa. Cách mạng là vậy. Lúc bấy giờ,
chủ nghĩa Cộng sản thắng lợi trên toàn
thế giới. Trái đất là một vườn hoa
thắm. Người lớn, trẻ con nhảy múa, vui
chơi ca hát. Trong trường học, các thầy cô giáo
chắc phải vất vả lắm mới giải thích
cho học tṛ hiểu được hai chữ “bất công!”
Cái Tâm
của thầy con ạ, không hiểu sao, bao lâu rồi
cũng ngập tràn niềm vui sướng hân hoan đó.
Ánh
mắt thầy dừng lại trên khuôn mặt của Toành
(anh em có người
đùa cho là giống mặt ngựa). Anh ta ngoảnh đi.
Tự nhiên thầy buột
miệng nói:
“Dạ
kính thưa Đội và bà con nông dân. Con đúng là người
đă bỏ cái
lưỡi cưa của ông Toành vào bụng cháu bé. Chưa
đủ, con c̣n nhét thêm vào đó cả cái kéo, cái xê ranh tiêm
thuốc nữa! Ha ha!”
Rồi
thầy lắc đầu cười sặc sụa.
Cười y hệt như lúc ở nhà vui với bạn bè, đùa
nghịch với các con vậy. Thầy không c̣n nghe ǵ tiếng la hét, tiếng hô “đả
đảo” đang ầm ào cả biển sóng bên lỗ tai
ù đặc. Sau hai lần đấu, tiếng ầm ào
cũng đă quen tai, nghe chẳng
to hơn tiếng vo ve của con ong ruồi kia từ
đâu bụi cây sau “khán
đài” đấu
trường, thấy động bay vào tới đây,
đang lượn quanh
đầu thầy… Cặp cánh, râu, càng nó đang gại
gại sống mũi, vo vo bên tai ḿnh: “Vỹ ơi!
Làm sao thế? Có lẽ nào?” Thầy muốn trả lời
nó: “Ong ơi! Giống loài cần mẫn, hữu ích,
đáng yêu quư như em mà rồi
con người vẫn có lúc ch́ chiết miệt thị:
nuôi ong tay áo! Thế giới này đầy bất công
phi lư! Lời nói của con người nhiều khi thật ngu xuẩn và ác độc!”
Thầy
dừng lại, kinh hoàng chợt nghĩ: Ta đă hoá điên
rồi sao?
Ngơ
ngác nh́n quanh, đầu gục xuống, không khóc mà sao nước mắt cứ
trào ra…
CHƯƠNG 37
TRUNG THU
TRĂNG SÁNG…
CHUYỆN
CHỒNG KỂ SAY SƯA,
VỢ NGHE
ĐẰM THẮM
Trở về
với câu chuyện đêm Trung thu năm 1950…
Sau khi mổ ruột thừa
cho thằng bé xong, thầy trở về nhà vào lúc 10 giờ
đêm.
Tội nghiệp
mẹ con! Bị chồng đánh đă không để
bụng giận chồng
lại c̣n như biết lỗi nữa! Vịm cháo gà mẹ nấu
ủ trong chăn đợi thầy về vẫn c̣n
đủ hơi nóng. Ăn xong thầy tỉnh cả
người.
Vợ chồng lại làm lành,
thương yêu nhau. Mẹ sụt sịt khóc, hứa sẽ không bao giờ hỗn hào nông
nổi như thế nữa.
Chiếc giường gỗ
của thầy kê đặt trong buồng riêng, hai cửa
sổ hai phía thông thoáng, từ đầu đêm tới
bất chợt lúc nào trong tháng
cũng thấy bóng trăng tṛn hay trăng khuyết.
“Lệ Uyên đă ngủ
rồi, mẹ nói, lúc ḿnh về nó không biết”.
Mẹ nằm xuống bên cạnh thầy. Cái tiếng “ḿnh” ai vừa nói đó làm ḷng
thầy dịu lại, mềm đi…
Thầy kể cho mẹ con nghe
về Bác Hồ
Bác Hồ hiện
đang sống trên chiến khu Việt Bắc. Bác không có
gia đ́nh, không có vợ, chẳng có con… Một đời
Bác hy sinh cho dân tộc, đồng bào… Hai
mươi lăm triệu dân ḿnh, hai mươi lăm
triệu đứa con cháu yêu của Bác. Bác là vị cha
chung của tất cả chúng ta.
Mẹ bảo, Bác Hồ
mắt sáng như sao, người Bác đẹp thế, ai
cũng thương yêu kính trọng, Bác muốn lấy cô
nào mà chẳng được? Sao Bác không lấy một bà,
để bà ấy nâng khăn sửa túi, lại c̣n pḥng khi đau ốm, tuổi già
đến, trái gió trở trời?…
Thầy nói, Bác c̣n th́ giờ
nào nữa, ngày đêm cùng mấy ông Trung ương, lănh
đạo toàn quân, toàn dân đánh giặc cứu
nước, lo cho đồng bào ai cũng được
ăn no, ai cũng được học hành… Bác mà cũng như chúng ta, ngày đêm vợ kè kè
bên, con cái vướng víu… th́ cái trí làm sao cho tĩnh, cái tâm
bằng cách nào yên; c̣n hơi sức nào nữa mà lo cho dân
từ bát cơm đến cái kim, sợi chỉ…
Mẹ hỏi,
thế c̣n mấy ông trên Trung ương th́ sao? Có ông nào cũng không vợ không con như Bác?
Thầy bảo,
mấy ông ấy đều có gia đ́nh riêng, vợ con
tử tế cả. Chỉ có
riêng ḿnh Bác thôi là phải hy sinh trọn một đời
cho dân cho nước vậy. Nghe mấy
ông trên Tỉnh kể, có 8 đồng chí suốt ngày đêm ở bên Bác chăm lo
bảo vệ Bác; 8 người ấy có tên riêng do Bác đặt cho là: Trường,
Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi.
Mẹ cười,
ồ vui nhỉ. Thích thật, mấy ông đó
được sống bên Bác suốt đời. C̣n ḿnh th́
chỉ mơ được gặp Bác thôi, nhưng
biết đến bao
giờ?
Thầy bảo, khi nào kháng
chiến thành công, thế nào Bác cũng về lại Hà
Nội, có khi về cả Thanh Hoá, Nga Sơn nữa. Theo
lời mấy ông trên Tỉnh kể, th́ cuối năm 1946
- đầu 47 Bác Hồ có về Thanh Hoá. Tại Rừng
Thông, Bác nói chuyện động viên hậu phương
Thanh Hoá hăy giốc hết sức người sức
của cho tiền tuyến. Bác c̣n tranh thủ ghé qua Phát
Diệm gặp Giám mục Lê Hữu Từ cùng các cha
cố, khuyên bảo họ hăy củng cố và phát triển
mối t́nh đoàn kết lương - giáo, cùng toàn quân toàn
dân góp sức đánh đuổi
giặc Pháp xâm lược…
Trên đời này có
lẽ chẳng có ai được như Bác cả,
người mà ở
đâu, lúc nào cũng được dân quư, dân thương…
Thầy say sưa nói đất
nước ḿnh từ xưa tới nay chẳng có ai sánh
được với Bác Hồ. Bà Trưng, Bà Triệu, ông
Trần Hưng Đạo, ông Lê Lợi, ông Nguyễn Trăi,
ông Quang Trung… ông nào cũng thua kém
Bác. C̣n trên thế giới th́ sao? Kể ra th́ có những người
c̣n vĩ đại hơn Bác. Chẳng hạn, ông Mác, ông
Ăngghen, ông Lênin, ông Xít-ta-lin…
Mẹ hỏi, có phải
mấy ông Tây râu xồm, thầy nó dán ảnh lên tường không?
Thầy bật
cười, ừ mấy ông đó. C̣n Bác Mao nữa. Bác Mao người Trung Quốc, trông c̣n trẻ và
khoẻ. Bác Mao không có râu. Trên mép dưới cằm
đều nhẵn nhụi. Ḿnh nh́n thấy ảnh Bác Mao rồi
chứ? Bác Mao có khi… e c̣n vĩ đại hơn Bác Hồ.
Cũng phải thôi, Trung Quốc những 600 triệu
người, ḿnh chỉ có 25 triệu, mới bằng
một tỉnh của họ… Bác Mao vĩ đại
hơn Bác Hồ. Đúng thế. Nhưng cái tấm
gương cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, yêu
nước thương dân, yêu quí trẻ con… th́ chẳng có
ông nào bằng Bác Hồ của
ta cả!
Mẹ hỏi,
thế c̣n Đức Chúa, Ông Phật?
Thầy cười, Chúa
Phật là mấy Ông Duy Tâm, dân chúng người ta mê tín th́
họ cúng vái vậy thôi, chứ làm sao sánh được
với Bác Hồ!
Ngoài trời, lúc bấy
giờ trăng sáng lắm. Gối đầu lên tay
thầy, mẹ giơ tay chỉ ông trăng ngoài cửa
sổ, vằng vặc giữa trời cao. Ánh trăng trong và mát tắm gội đất
trời, không chỉ làm cho cây cỏ hoa lá ngoài vườn
mà cả ḷng người cũng sạch thơm tươi
thắm. Gió ŕ rào từ ngoài biển xa, qua đồng
cói vào tới đây d́u nâng,
mơn vuốt, làn điệu côn trùng năn nỉ, tỉ
tê… như muốn nhắn nhủ
cho con người hiểu rằng ai được sinh ra
ở cơi đời này, xứ sở đất
nước này là có hồng phúc, là gặp vận may không
chỉ riêng cho bản thân mà cho cả gia tộc… tới
muôn đời sau!
Hồng Phúc, Vận May như
ánh trăng kia lai láng đời đời vô tận!
Thầy rưng rưng nh́n
trăng nói: “Ḿnh xem, Bác Hồ như vầng trăng kia, rọi sáng khắp muôn nhà…”
Rồi nhắc nhủ mẹ
phải cố gắng, cố gắng nhiều hơn
nữa, đừng có kêu ca phàn
nàn. Sự hy sinh, chịu đựng của gia đ́nh ta so với đồng bào, đồng
chí cả nước chỉ là hạt cát, hạt mẵn…
chẳng là cái nghĩa lư ǵ hết!
Thầy lại kể sang chuyện gia đ́nh Bác
Hồ.
Đâu phải chỉ ḿnh Bác,
hai người anh và chị của Bác đều không lập gia đ́nh. Ông Cả Khiêm
không lấy vợ, bà Thanh không lấy chồng. Cả
hai đều hiến dâng đời ḿnh cho công cuộc
đánh đuổi giặc Pháp
xâm lược, giành lại độc lập tự do cho
đất nước.
Ở thời
buổi ấy, ngay đến cả những ông Vua
ngồi trên ngai vàng như Hàm Nghi, Thành Thái,
Duy Tân rồi cũng phải cảm nhận
được nỗi đau mất nước, thấy
thân phận ḿnh cũng chỉ là người
dân nô lệ. Cả ba vua đều nổi dậy chống
Pháp, rồi bị đày đi biệt xứ, chung
thân tại mấy ḥn đảo bên Châu Phi xa lắc….
Số phận mấy ông quan có
ḷng yêu nước thương dân cũng thê thảm bi
đát.
Ông thân sinh của đồng
chí Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của
Đảng ta là một biểu tượng xót
thương đáng ghi nhớ. Đậu Thủ khoa chữ
Hán, được bổ làm quan Tri phủ một tỉnh
ở Miền Trung… Ông luôn luôn dằn vặt, đau ḷng
trước cảnh dân lành bị đói khổ, chà
đạp dưới ách nô lệ áp bức của
thực dân Pháp và Nam triều.
Một lần, bất tuân
lệnh của thượng cấp, không thể đang tâm
đưa lính đi đàn áp cuộc nổi dậy
chống thuế của nông dân địa phương,
bố của Trần Phú, vị quan nhà Nguyễn dào dạt
ḷng nhân đạo và khí tiết… đă lặng lẽ tḥng
dây treo cổ tự vẫn ngay tại
phủ đường nơi ông đang làm việc!
Mối thương
đau, nỗi hờn căm này sẽ không bao giờ nguôi ngoai trong ḷng người con của ông là
Trần Phú!
C̣n trường hợp Cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh ra Bác Hồ cũng vậy… Ông quan Tri huyện ở
một tỉnh miền Trung này cũng đau ḷng
nhức óc v́ thảm cảnh của đồng bào xẩy
ra thường ngày, đến
nỗi ngày ăn không ngon, đêm ngủ chẳng yên! Đă
nhiều lần cụ chứng kiến những trận
mưa roi bọn lính c̣ cẩm Pháp trút lên thân ḿnh đám phu
đường, các tù nhân chính trị ở nhà đày…
Và có lần tận
mắt thấy viên quan lại Nam Triều lè nhè say trong
khi ngồi trên ghế ở Huyện đường,
đă cầm cây gậy lim to tướng
quật nện xuống giữa đầu người
nông dân vô tội, khiến cho gáo anh này vỡ toác, máu óc
vữa ra lênh láng, gục ngă xuống nền nhà, chết ngay tại chỗ…
Cụ Phó bảng
tưởng đâu ḿnh cũng ngất xỉu chết theo!
Vài ngày sau, cụ viết
đơn gửi lên Chính quyền Pháp và Nam triều xin cáo
quan, từ chức!
Kinh tởm chế độ
thực dân thuộc địa, chán ngấy bước đường làm quan, Cụ Phó
bảng Sắc vào thẳng trong Nam Bộ lặng lẽ
sống đời của một lương dân, làm
thuốc Nam chữa bệnh cứu người!
Cả gia đ́nh Bác
để phúc, dành đức cho dân tộc ḿnh!
Mẹ mới chen ngang vào
hỏi thầy, rứa th́ Phó bảng là cái chi? Thầy
phải dừng lại cắt nghĩa dài ḍng cho mẹ
hiểu. Ngày xưa, dưới
chế độ phong kiến, các ngôi thứ trong khoa
bảng được sắp xếp từ thấp lên cao
theo ba kỳ thi: Hương, Hội, Đ́nh.
Kỳ thi Hương,
Triều đ́nh chọn một số thí sinh đậu
thấp gọi là Tú tài, số
cao hơn gọi là Cử nhân. Tú tài không được làm quan,
chỉ được phép dạy học và làm thơ
như ông Tú Xương chẳng hạn. Cử nhân th́
được làm quan, thường nhậm chức tri
huyện… Đỗ đầu khoa thi Hương này, đè
sấp đè ngửa tất cả các ông Cử nhân
được gọi là Thủ khoa, hay c̣n gọi là
Giải nguyên. Ông thân sinh ra Trần Phú là người
chiếm ngôi thứ này.
Thời xưa đậu
Thủ khoa-Giải nguyên danh tiếng đă lẫy lừng.
Như cụ Phan Bội Châu chẳng hạn, năm Canh Tư
1900, chiếm gọn cái Thủ khoa xong là cụ đi
thẳng sang Nhật, chẳng cần
ngoái đầu lại… Cụ Phan thi là để lấy
tiếng, đâu có cần miếng. Tiếng nghĩa
là uy tín đối với giới sĩ phu, tầng lớp
trí thức, ḷng ngưỡng
mộ kính yêu của dân chúng, đồng bào; để khi
cần đề ra đường
lối, chủ trương kêu gọi toàn thể quốc
dân tham gia phong trào cách mạng, th́ lời nói việc
làm của Cụ dù là ở đâu, lúc nào cũng sẽ
được đa số người dân Việt
đồng t́nh ủng hộ, tham gia ngay!
C̣n miếng, có nghĩa là thi
đậu để ra làm quan th́… xin lỗi… Cụ ỉa
vào! Thầy văng tục làm mẹ ph́ cười. Là tri
huyện, tri phủ, tổng đốc, thượng
thư ư? Ngay từ lúc cất tiếng khóc chào đời, Cụ Phan đă khóc cho
cái thân phận ḿnh là làm người dân nô lệ rồi! Khác với các sĩ phu
yêu nước cùng thời, một số vị do hoàn cảnh
ép buộc, cũng phải dính tới cái miếng, nghĩa
là có ra làm quan cho Nam triều một thời gian,
trước khi cởi bỏ mũ áo quan trường, tham
gia các trào lưu cách mạng… Cụ Phan căm ghét Pháp
từ lúc mở mắt chào đời, muốn đánh
đuổi thực dân ra khỏi nước, xoá bỏ
chế độ phong kiến nô lệ; từ thuở c̣n
là nhi đồng đă bày tṛ chơi diệt Pháp-Lan-Tây cho
các bạn nhỏ trong làng… C̣n nói
ǵ tới cái miếng
nhơ nhớp, xa lạ, khốn khổ ấy! Không
có ai sáng giá, hùng vĩ như Phan Bội Châu lúc bấy giờ. Và Phan Chu Trinh… Một con
người kỳ diệu. Cụ sinh trước và mất
trước Găng-đi… Vậy mà… nguồn sáng tư
tưởng Cụ không chỉ
tương đồng mà lại c̣n vượt trội
trước Găng-đi! Một nhân vật lịch
sử mà dân tộc Việt Nam, loài người chúng ta
rồi sẽ gặp lại và
c̣n suy nghĩ…
Thầy lại nói
thêm về cái miếng
cho mẹ hiểu
đầy đủ hơn.
Lúc Pháp mới sang, cái miếng
lại càng cuốn hút người ta bởi nhiều mùi
vị khác lạ tân kỳ. Ngày xưa, nói của đáng
tội, các cụ ta làm quan cũng nghèo. Bây giờ làm quan có
nghĩa là tiền của, giàu sang. Chẳng thế mà Pháp
mới sang buổi sáng, buổi chiều
đă có anh cắp ô đi làm cho Pháp ngay. Tiêu biểu
nhất cho bọn
người này là Tôn Thọ Tường. Cũng phải
kể thêm hai anh em họ Dương: Dương Khuê,
Dương Lâm - hai con chó săn của Tây, hai thằng Việt gian. Có ai
đời ông bạn thâm giao Nguyễn Khuyến khuyên
“biết thôi thôi thế th́ thôi mới là”, họ
Dương vẫn không chịu nhả ra, vẫn
đớp lấy, ngoạm chặt cái miếng
“đẩu thăng”… Rượu sâm banh, sữa ḅ, chơi
đĩ, hát ả đào… là những cái khoái “ngây ngây dại dại” của hai tên
quan ô nhục này!
Thầy say sưa
dẫn giảng cho mẹ
nghe những chuyện trong đời
sống lịch sử của dân tộc Việt Nam từ
hơn nửa thế kỷ qua, mà không hiểu sao
đêm nay, thầy thấy gần gũi mật thiết
với ḿnh đến thế! Khác nào một con chiên mới
theo Đạo, muốn giải bày cho bạn t́nh nghe về những “mặc khải”
(revelation) trong người ḿnh, Đạo Mác Lênin
cũng đang phơi phới dâng trào làm ngập cả cơi ḷng thầy.
Im lặng một hồi lâu.
Tưởng mẹ đă buồn ngủ, nhưng không, mắt mẹ mở to, vẫn
muốn nghe thầy kể chuyện.
Mẹ nhắc lại là,
thầy vẫn chưa nói rơ Phó bảng là cái chi, c̣n Thám hoa nữa… là ǵ? Làm sao Cụ
Tổ họ Mai nhà ta lại gọi là Cụ Thám?
Thầy mỉm cười,
gắng dẫn giải sơ lược nhưng rơ ràng
hơn cho mẹ hiểu. À, thế này chứ… Thi
Hương xong người ta lại thi Hội. Trừ cụ Phan Bội Châu ra, ai
người ta cũng vác lều chơng tiếp tục
kỳ thi Hội. Thi Hội là để chọn Tiến
sĩ, c̣n gọi là ông Nghè. Ông Cử đă được
phép làm quan nhưng là quan nhỏ; c̣n ông Nghè th́
được làm quan lớn hơn; chẳng hạn, án
sát, tuần vũ, tổng
đốc…
Kỳ thi Hội này, có
những người tuy không đậu được
Tiến sĩ nhưng cũng đậu được…
cái thấp hơn, gọi là Phó bảng. Cũng có thể
gọi là Á Tiến sĩ. Dẫu chưa được
gọi là Nghè, nhưng vẫn được ra làm quan,
dĩ nhiên… Cử nhân c̣n được làm quan kia mà! Có điều, cũng là chuyện
tất yếu thường t́nh, nhiều ông Phó bảng
thường mang cái cục u uất, bất măn trong
người như khối u
vậy. Học tài thi phận, chỉ cần gắng thêm
một tí, may mắn hơn một chút, là cái ông Nghè đă…
nằm trong tầm tay với rồi!
Tuy nhiên, lại cũng tuỳ
thời, tuỳ người… Chẳng hạn, ông Nghè Trần Quư Cáp vào làm quan ở
Khánh Hoà lại gặp tay Tú tài Phạm Ngọc Quát từ
trong Nam ra. Phạm Ngọc Quát nghe đâu là ông nội
hay bố đẻ ra Phạm Ngọc Thạch, Bộ
trưởng Bộ Y tế của ta thời bây giờ?
Tiến sĩ họ Trần dẫu học rộng tài cao
cũng vẫn ngồi hàng quan chức thấp hơn Tú tài
họ Phạm, là tay chân của Pháp. Vụ án tày trời do
Phạm gây ra cho Trần về mấy tội: đọc
sách cấm Tân thư, hoan hỉ đồng t́nh với bà
con nông dân nổi loạn chống thuế ngoài Quảng Nam,
treo một tấm bản đồ thế giới ở
đầu giường, trong pḥng ngủ… đă khiến
ông Nghè Trần Quư Cáp phải chịu xử tử h́nh
thương tâm, rùng rợn, đau đớn bên cầu Sông Cạn ở thành Diên
Khánh: chém ngang lưng!
Mẹ ôm gh́ lấy thầy,
xuưt xoa: Trời ơi! Thương quá! Tội quá! Các cụ ḿnh thời xưa sao
lắm người khổ sở đau đớn
thế!
Thầy dẫn
giải tiếp:
Sau kỳ thi Hội,
mấy ông Tiến sĩ lại tiếp tục thi Đ́nh.
Người đậu đầu kỳ thi
Đ́nh, gọi là Trạng nguyên. Trạng nguyên là ngôi cao
nhất, người đứng đầu khoa bảng
thời xưa. Dưới Trạng nguyên, thấp hơn
một chút, Triều đ́nh chọn thêm một
người nữa là Bảng
nhăn, c̣n gọi là Á Trạng…
Từ thời Lê trở
về trước, các khoa thi Đ́nh, đều có
tuyển chọn. Từ thời
Nguyễn trở đi, không rơ v́ sao Triều đ́nh
không tuyển chọn Trạng nguyên nữa; chỉ c̣n có
Bảng nhăn, thậm chí cho đến thời Tự
Đức chỉ c̣n lại Thám hoa, sang thời Thành Thái chỉ c̣n có Hoàng giáp…
Ông Cụ tổ họ Mai nhà
ta đậu Thám hoa thời Tự Đức. Cũng coi như là Trạng nguyên… làm
quan một dạo rồi xin về quê mai danh ẩn tích.
Càng
về khuya, trăng càng sáng. Trời trong vắt, không
một gợn mây. Qua cửa sổ, thời gian và không gian
như lắng lại cùng hoà làm
một. Thầy thấy ḿnh ngây thơ nhỏ bé
trước Nhân dân và Tổ quốc, rưng rưng
cảm nhận ra sự lớn lao của hạnh phúc được làm một
người dân Việt… Liên Xô, Trung Quốc và các nước
Xă hội Chủ nghĩa dĩ nhiên là họ sung
sướng hơn ḿnh rồi; nhưng c̣n các nước
tư bản và những nước ở quanh ta như
Ấn Độ, Nam Dương,
Thái Lan, Mă Lai… th́ sao? Chắc chắn là lạc hậu tăm
tối hơn ta nhiều v́ họ không có đảng
Cộng sản dẫn lối đưa đường, lại càng không thể có một lănh
tụ kiệt xuất anh minh như Bác Hồ!
Nghĩ vậy, mà nước
mắt cứ rưng rưng và trong tim ḿnh như cũng ứa lệ. Cảm
ơn Đảng, cảm ơn Cách mạng đă sinh con ra đúng
th́ đúng lúc… Chẳng phải như ai cùng lứa
tuổi, thế hệ với con mà rên rỉ kêu than là
“đầu thai lầm thế kỷ, lạc loài dăm
bảy đứa” đến
nỗi “quê hương ruồng bỏ, giống ṇi khinh”…
Mẹ con lại
hỏi, vậy th́ ai mới được gọi là nhà
cách mạng?
Trước hết,
người đầu tiên phải nhắc tới là Bác
Hồ Chí Minh, Cha già dân tộc…
Thầy vừa nói
đă nghẹn lời v́ xúc động. Rồi lần
lượt kể tên: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Nguyễn Thái Học, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy
Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ, Ngô Gia Tự…
Thầy dừng lại như
đứng trước biển, đang ngợp đi v́ những đầu sóng dạt xô vào
bờ.
Khách quan mà kể th́
ba ông vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân cũng là ba nhà cách mạng -
những nhà cách mạng lớn! Chấp
nhận tù đày, đặt Tổ Quốc lên trên hết,
không chịu làm nô lệ, coi ngai vàng nhẹ như chiếc
lông hồng… hy sinh tất cả để dành lại độc
lập, tự do cho Đất nước… Như vậy,
nếu không là Cách mạng th́ là
ǵ?
Cũng phải kể tên
những người kế tiếp sau đó: Tôn Thất
Thuyết, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Phan
Đ́nh Phùng, Hoàng Hoa Thám,
Nguyễn Thiện Thuật, Lương Ngọc Quyến…
Mẹ đưa ra một
nhận xét: Trong danh sách những nhà cách mạng Việt Nam
th́ đa số là đàn ông nam giới, đàn bà nữ giới không nhiều.
Mẹ hỏi,
chị Nguyễn Thị Minh Khai là ai, nghe nói cùng quê Nghệ An với Bác Hồ, có bà con ǵ
với Bác không?
Thầy giảng
giải cho mẹ
hiểu: chị Minh Khai là vợ của đồng chí
Lê Hồng Phong. Cả hai vợ chồng chị cùng với
Trần Phú, Hà Huy Tập… đều là học tṛ của
Bác. Thầy và tṛ đây có nghĩa ở trường đời, trường Cách mạng… chứ không phải
trường học đơn thuần dạy a b c
dành cho trẻ con đâu! Thầy tức là người
đi trước, người đào tạo, rèn luyện…
truyền lại những kinh nghiệm đấu tranh, dắt dẫn đường
lối chủ nghĩa Mác Lênin…
Chị Minh Khai là
người đàn bà Việt Nam đầu tiên sang Liên Xô,
đất nước của Lênin. Lê Hồng Phong bị
Pháp bắt, đày ra Côn Đảo và chết ở ngoài
đó. C̣n chị Minh Khai th́ chết trong khởi nghĩa Nam Kỳ. Bọn Pháp
đưa chị lên máy chém.
Nghe thầy kể cái
lưỡi máy chém nặng cả bảy tám chục cân từ trên cao phập xuống,
chặt đứt cổ ĺa đầu các chiến sĩ
cách mạng! Những năm trước đó là
Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí trong cuộc
khởi nghĩa Yên Bái và bây giờ, năm 1942, là Nguyễn Thị Minh Khai… Mẹ con
sợ quá, rúc đầu vào ngực chồng rùng ḿnh:
“Trời ơi, bọn Pháp chúng nó ác quá, dă man quá, chặt đầu cả một
người đàn bà!”
Vợ chồng Lê Hồng Phong
- Nguyễn Thị Minh Khai sinh được
một bé gái, đặt tên là Hồng Minh… thầy kể
thêm. Nghe nói một thời gian dài họ phải
gửi Hồng Minh cho các đồng chí cưu mang, nuôi giùm
để đi hoạt động cách mạng. Có đâu
được như bé Lệ Uyên nhà ḿnh, ngày đêm bố
mẹ nuôi dưỡng, ông bà chăm
sóc…
Trước khi chết,
chắc chị Minh Khai nhớ thương con lắm. Mẹ thở dài. Thế bây giờ
cháu bé nó ở đâu? Ở bên Trung Quốc à? Giá như cháu ở gần đây,
ngay tỉnh Thanh, nhà ḿnh đem về nuôi th́ hay biết
mấy. Thương quá!
Thầy gật đầu
đồng t́nh. Nhà ta những năm 40 cũng đă
từng nuôi giấu các chiến sĩ Cộng sản trong
nhà. Cái giường gỗ em và bé Uyên nằm bây giờ,
mấy ông Cộng sản vượt ngục ra… đă từng yên giấc.
Vừa lúc đó, bé
Uyên u ơ khóc trong nhà đ̣i mẹ. Thầy bảo mẹ vào với con.
Thầy vừa chợp
mắt một lúc th́ mẹ lại quay trở ra. Nghe
thầy ú ớ hỏi, mẹ xuỵt bảo im… Thầy
hiểu ư. Lúc ấy vào khoảng hơn một giờ khuya.
Mảnh trăng đă đi khuất sang bên kia mái nhà.
Đêm ấy, mẹ có thai. Bé
Thụ, em trai của con mới thật là cậu út của cả nhà.
Em con chết khi vừa
đầy năm. Dạo ấy thầy phải đi
họp, học tập chỉnh huấn chính trị trong
Nghệ An. Ở nhà chẳng có ai biết cứu chữa,
cũng không t́m đâu ra thuốc uống để cầm
dứt chứng ỉa chảy,
dịch tả…
Về
tới nhà thầy mới biết tin. Em bé đă chôn cất
được hai ngày rồi.
Ôi...!
CHƯƠNG 38
NGƯỜI
VÔ H̀NH
Thầy lại
nằm yên, trông đợi trời sáng.
Trời sáng, một ngày
tới, con người quanh ta họ lại thức
dậy và làm những việc thường ngày. Trong đó
có cái việc quan trọng nhất mà họ phải hoàn thành
và hoàn thành vượt mức, ấy là đánh đổ
giai cấp địa chủ, tiêu diệt bọn Việt
gian phản động bằng
tất cả ngón đ̣n hóc hiểm, tṛ chơi man rợ
nhất mà họ moi t́m, nhào
nặn ra từ trong đầu óc. Phải giết
người làm sao đây để cho thoả cái khoái
cảm của ḷng hận thù, ganh ghét giai cấp mà Trời đă ra lệnh, Đội
đă phóng tay, ban cho họ cái quyền tự do vô hạn
độ!
Nghĩ tới chuyện
vợ chú Lê Trạch Đông tố bà nội con, mà cũng
là mẹ của thím ấy chứ c̣n ǵ, đang đêm
một ḿnh ṃ ra giếng làng, cởi quần, chổng mông
đít, ngồi xổm, ỉa phẹt xuống giếng
mấy băi liền để cho cả làng phải uống
nước cứt. Rồi nghĩ sang chuyện vợ
chồng C̣ Toe được y tá Toành mớm cho, tố
thầy đă nhét cái lưỡi cưa vào ruột thằng
cu con… để đến nỗi thằng bé lăn
đùng ra chết ngay… Thầy phải lắc đầu
bái phục chịu thua cái trí tưởng tượng phong
phú cực kỳ của các ông bà nông dân ta!
Các chuyện cổ tích hoang
đường, tiếu lâm nực cười xưa nếu đem so sánh với những
chuyện đấu tố thời bây giờ, nói như
chàng Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng là
“chẳng nước mẹ ǵ”.
Không nhịn
được, tự nhiên thầy phá lên cười.
Tiếng cười vang lên
trong pḥng giam giữa đêm khuya làm
chính thầy cũng giật ḿnh.
Vỹ ơi! Anh hoá điên
rồi sao? Ừ, tôi đang điên đây. Là con người đôi lúc cũng dễ
hoá điên lắm, nhất là sinh ra ở cái đời này!
Thầy dỏng tai, rán sức
nghe. Không ai hay biết ǵ cả. Chỉ có tiếng mọt nghiến từ tấm ván cửa
đàng sau buồng giam. Giữa đêm khuya nghe rơ mồn
một, lại có vần có điệu như tiếng nhai rồn
rột, trèo trẹo, vỡ vụn một khúc xương
từ hàm răng của con chó,
con gấu… Hay chính con người chúng ta?
Ngày mai đây, 27 tháng
Chạp năm Ất Mùi 1955… thầy linh cảm rằng Mai
Duy Vỹ sẽ không c̣n nữa, hay nói cho thật đúng và chính
xác hơn, Mai Duy Vỹ sẽ chết. Người ta
sẽ giết hắn để cho tất cả mọi người ở quanh đây,
khắp cả Nga Sơn Thanh Hoá được sống.
Riêng những người như các ông Đông, Toành, Xoa, Toe…
và mấy ông bà Đội, đặc biệt ông
Đội trưởng, người Nam Đàn, nói
tiếng Nghệ th́ không chỉ được sống thôi
mà c̣n được giết. Giết!
Giết!
Ngày mai đây, tiếng con
mọt nhai nghiến kia lại vẫn rồn rột, trèo trẹo vang lên trong đêm
khuya. Không chỉ thế thôi đâu, c̣n nhiều con khác
nữa, chuột, mối, bọ sẽ gậm nhấm khoét
đục Mai Duy Vỹ này, đùn đất lên, khỏa
vùi nỗi đau một thời của ḍng họ Mai cùng năm tháng.
Thầy muốn
sống, các con ơi, thầy muốn sống! Ai lại
đi bắt một con người vô tội phải
chết ở tuổi 36! Trời Đất ơi! Hăy cho
tôi sống để tôi nuôi các con nhỏ, báo
hiếu đền ơn cha mẹ! Bà con ơi! Các đồng chí ơi! Tôi vô tội! Hăy
để cho Mai Duy Vỹ được sống để
Vỹ chữa bệnh cho dân nghèo, báo đền công ơn
các đấng tiên liệt! Oan cho con lắm, Bác Hồ
ơi! Oan cho tôi lắm, anh Trường Chinh ơi!
“Vỹ!”
Một tiếng thét
đập vào tai, ngay trước mặt làm thầy
giật ḿnh, sững
người.
“Sao đồng chí
hèn nhát thế?”
Thầy ngước nh́n phía
trước. Căng mắt t́m xem trên nền tối của màn đêm có h́nh bóng ai
hiện lên không? Lại cũng muốn ngoái sang bên, quay
ngoặt lại đằng sau… nhưng cái cổ đă
cứng ngắc như hoá
đá.
“Đồng
chí Vỹ! Thử nhớ lại xem nào…” - Tiếng nói
bớt gay gắt, có phần ôn tồn. - “Thử nhớ
lại xem… Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn
Thụ, Lư Tự Trọng… đă nói những ǵ với
kẻ thù của dân tộc, kẻ thù của giai cấp
trước lúc ra đi. Ánh mắt của họ đă nh́n
thẳng vào Cái Chết như thế nào? Mới đó thôi,
chưa tới 15 năm… Vậy mà sao bây giờ đồng
chí lại có thể đớn hèn,
tham sống sợ chết thế nhỉ?”
Thầy chới
với trước một đợt sóng ngầm xô
tới, ào lên, bật ngửa. Là một tay bơi
vào loại khá thế mà ḿnh bỗng nhiên trở thành người không biết bơi,
cứ thế ch́m xuống, ch́m xuống…
“Không! Không mà!… Cho tôi nói” -
Thầy ú ớ la lên - “Tôi đâu
có đứng trước kẻ thù… Bà con nông dân,
Đội Cải cách… các anh em, đồng chí…
những người tôi xin được cúi đầu,
tuân thủ, phục vụ. Chính họ coi tôi, Mai Duy Vỹ,
là kẻ thù của dân tộc, kẻ thù của giai cấp
đấy chứ! Giả dụ đế quốc Pháp có
bắt được tôi, giam giữ tra tấn, đem tôi
ra pháp trường xử bắn, như Trần Phú,
Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn thụ… tôi tin rằng
ḿnh cũng có được sự dũng cảm, kiên
cường… nếu không 10 phần, th́ ít ra cũng
được ba bốn năm phần như các
đồng chí ấy. Trước lúc ra đi, ḷng dẫu đau đớn thương
vợ nhớ con, tôi vẫn có đủ sức mạnh
b́nh tĩnh nh́n vào Cái Chết! Tôi không có kẻ thù! Tôi không phải là kẻ thù!”
Thầy uất
nghẹn, muốn thét lên.
Một vệt sáng đi ngang
qua. Ḥn lửa đỏ nhấp nháy chập chờn. H́nh
như Ai đó? Người-vô-h́nh nào đang lởn vởn
mờ tỏ đằng
trước mặt?
“Vậy kẻ thù là ai?” Tiếng Người-vô-h́nh
đay lại có phần gay
gắt không khoan nhượng.
“Tôi không
phải là kẻ thù! Thế thôi!” - Thầy lắc
đầu, dằn giọng.
“Anh cho
rằng ḿnh không phải là kẻ thù th́… chính anh đă là
kẻ thù!”
“Ủa?
Sao vậy?”
Người-vô-h́nh
nói thủng thẳng từng tiếng nghe như đọc
bài:
“Lịch
sử của loài người từ khi có giai cấp là
lịch sử của đấu
tranh giai cấp.
Từ
khi xă hội loài người phân chia ra giai cấp là từ
đó sinh ra kẻ thù.
Giai cấp bóc lột là kẻ thù của giai cấp bị
bóc lột. Và ngược
lại… Ai cũng trở thành kẻ thù của ai hết!
Không ai là không có kẻ thù, và không ai không phải là
kẻ thù. Và tôi đây này, tôi cũng
là kẻ thù của chính tôi! Hiểu chưa?”
“Vâng.
Nhưng mà…”
“Nhưng
mà cái chi? Hử? Hạnh phúc là đấu tranh!”
“Đồng
ư. Có đấu tranh mới có hạnh phúc…”
“Cho
nên, đấu tranh ban ngày chưa đủ, phải
đấu tranh cả ban đêm. Làm ngày chưa đủ, tranh thủ làm
đêm. Lao động sản xuất,
giết giặc…”
“Đồng
ư”.
“Ngay
cả ban đêm, nhắm mắt rồi trong giấc
ngủ cũng phải…
đấu tranh!”
“Dạ.
V́ sao thế ạ?”
“Kẻ
thù nó chui vào, ẩn khuất ngay trong giấc ngủ, không
phải thế sao? Chẳng hạn, đồng chí mơ
thấy ḿnh ăn no mặc ấm, vợ đẹp con khôn,
không phải làm chi cả mà thóc lúa đầy bồ,
chết đi rồi
c̣n được lên Thiên Đàng, về Niết Bàn… Không
phải là kẻ thù nó len vào, nó xui khiến bậy bạ
hay sao? Kẻ thù nó xúi mày làm những điều ác hại
như cưa tay, chặt chân, bỏ lưỡi cưa vào
bụng, tiêm thuốc độc vào người các ông bà,
anh chị nông dân… cho nên mày là kẻ thù đứt đuôi
của giai cấp nông dân, anh em bần
cố, Quân Chủ lực… rồi chứ c̣n ǵ! C̣n căi
nữa không?”
“Nhưng
mà…”
“Nhưng…
nhưng cái con khỉ! Vẫn chưa thông hả?”
“Nhưng…
nói như vậy hoá ra trước khi xă hội loài
người phân chia giai cấp th́ kẻ thù có rất ít
hoặc gần như không có. C̣n từ khi phân chia giai
cấp tới nay th́ nẩy sinh ra không biết bao nhiêu là
kẻ thù! Con người đang từ chỗ vô tư,
nhân hậu, bỗng nhiên trở nên xấu tính: ḍm ngó, xét
nét, ganh ghét, cấu véo, đâm
chọc, đánh lộn, bắn giết nhau… Có phải
thế không ạ?”
“Ừ…
th́ nói nữa đi”.
“Con
người mang tính giai cấp rồi cũng ảnh
hưởng tới loài vật… Chẳng hạn như con
chó. Trước đây, con chó nào cũng là con chó. Nghĩa là, ở với con
người th́ ban ngày sủa gâu gâu để cho chủ
biết có người qua đường hoặc vào nhà,
ban đêm ăng ẳng kêu to để chủ hay rằng
trời vẫn c̣n tối và Ông Trăng đang c̣n mắc
trên ngọn cây đang chờ Bà Trời lên gỡ thoát ra…
Nghĩa
là, cùng với con người, chó ta rất hồn nhiên, vô
tư!
Nhưng
từ khi con người phân chia giai cấp rồi, bắt
đầu cấu véo, uưnh
lộn, bắn giết nhau th́ loài chó tự nhiên cũng thay
đổi cách nh́n, lối sống đối với
nhau. Con chó nhà này bắt đầu ganh ghét với con chó nhà
bên kia. Tại sao ḿnh gầy g̣, xấu xí như ri mà hắn
ta th́ béo tốt mượt mà như rứa? V́ cớ chi mà
ḿnh th́ một miếng cơm văi, cơm rơi trông chờ
mỏi cổ lắm khi cũng nỏ có, c̣n phải
kiếm thêm băi phân, cục cứt; tranh nhau đớp
cắn mổ rỉa cùng với con gà thằng mèo… C̣n
hắn th́ sao, cơm thừa canh cặn chẳng thiếu,
thỉnh thoảng c̣n được bồi dưỡng
thêm cục xương heo, xương ḅ to tướng, gân
thịt c̣n đeo bám tua tủa, ngoạm đưa vào xó
ngồi gặm cả buổi cũng chưa hết…
Bởi
thế cho nên, đôi khi ta vẫn thường thấy ngoài
ngơ, trên đường có những con chó đè nhau ra,
cắn nhau chí tử. Một hai con cắn nhau đâu đă
xong, tự nhiên nhiều con khác xuất hiện ở
đâu trong các ngơ xóm, hóc hẻm… chạy ra, chúng cũng chia
làm hai phe rơ rệt, nhập vào liên kết với hai con chó
kia, nhảy chồm lên nhau,
cắn xé nhau cho đến khi nào tơi tả da thịt,
sứt mơm, long răng… rồi mỗi con chạy đi
mỗi nơi, mà vẫn không sao hiểu
được v́ đâu lại xẩy ra trận
đại chiến, cuộc đấu tranh giai cấp khủng khiếp,
quyết liệt như vậy?”
Thầy
dừng lại, giữ ư. Cứ tưởng u mặc
(humour) một chút cho vui, có khi chạm nọc hắn
lại nổi điên lên, nhưng không, Người-vô-h́nh lại c̣n pha tṛ góp vui thêm.
“Thế
c̣n trường hợp như ta vẫn thường
gặp, hắn nói, một con chó và một con cầy, hai con chổng
đít lại nhau, ngoắc ngoéo đuôi nhau, làm cái tṛ ǵ mà dù người ta
có lấy đá ném vô đầu, dùng gậy nện vào
sống lưng, hoặc cầm dao rựa chặt một
phát xuống giữa… hai cái nớ, th́… hai đứa, à hai
con, vẫn cứ đoàn kết,
kiên quyết không chịu ly khai, buông rời nhau ra! Theo
đồng chí, hiện tượng đó biểu hiện
bản chất ǵ?”
“Tôi
chưa dám đánh giá và cũng không quen kết luận
về cái gọi là bản chất, tuy nhiên về hiện
tượng, theo tôi, ta có thể gọi đó là sự
đồng cảm giai cấp, mối giao hoà giai cấp
hoặc khối liên minh giai
cấp…”
“Chưa
chắc! Hiện tượng và bản chất dù không
thể lúc nào cũng
đánh đồng lại làm một, tuy nhiên vẫn không
thể tách rời hai cái đó ra… Hai cái con đó, chúng nó
chắc ǵ đă mang bản chất giai cấp giống
nhau, thành phần giai cấp giống nhau? Phải truy t́m cho ra thành phần giai cấp,
lư lịch ba đời của chúng…”
“Ba
đời thôi ư? Theo tôi vẫn chưa đủ.
Phải bốn năm đời trở lên ta mới
tạm gọi là nắm được bản chất giai
cấp của từng người:
Lịch sử nhân loại, lịch sử đấu tranh
giai cấp đă trải qua cả mấy ngàn triệu
năm kia mà!”
Thầy
khẽ cười. Hắn im lặng. Có vẻ như
đồng ư mà lại cảnh giác.
“Đă nói
đi nói lại rồi! Vấn đề quan trọng
nhất vẫn là giai cấp và đấu tranh giai cấp.”
Giọng hắn lại trở nên khô queo và lạnh lùng.
“Không thể, dù là một phút, mà buông lơi quan điểm giai cấp, chao đảo
đứng không vững trên lập trường giai
cấp. Có đấu tranh giai cấp th́ xă hội
mới phát triển được. Phải đẩy
đấu tranh giai cấp lên
tới đỉnh tột cùng! Và đây là trận cuối
cùng…”
Rồi Người-vô-h́nh nói
như hát:
Đây
là trận cuối cùng sẽ thắng
Đè
bẹp quân thù đế quốc!
Chúng
ta không xa rời!
Quyết
không bao giờ xa rời!
Đảng
là đội ngũ của giai cấp tiên phong!
…Đây
Liềm Búa vung lên nhằm vào đánh cho quân thù nát tan.
Chúng
ta bao người quyết không xa rời
Đảng
Cộng sản mến yêu.
Ai
đi tiên phong giành cơm áo cho dân?
Ai
đứng lên lănh đạo được toàn dân
đấu tranh
Cung sang tang! Củng sản tàng…
Cung
sản tàng! Giai cấp tiền phong!
Trong người tự nhiên
thấy phấn khởi, lâng lâng… thầy cũng hai ba nào…
vỗ tay lấy nhịp, đệm theo cho hắn hát…
Hắn dừng lại
đột ngột, ḍ xét.
“Trận cuối cùng
này. Hắn dằn giọng, nói to. Dù có phải hy sinh,
đổ máu đến một phần ba nhân loại
cũng phải quyết tâm chiến
đấu và… hoàn thành!”
“Đồng ư!
Quyết tâm!” Thầy hùa theo một cách chân thành ngây
thơ. “Xin được phép hỏi đồng chí… Sau
trận cuối cùng sẽ thắng,
và chắn chắn sẽ thắng cả trăm phần
rồi, xă hội loài người sẽ tiến lên…
tới đâu?”
“Cộng sản chủ nghĩa, chứ c̣n ǵ
nữa!?” Hắn nói nghe như gắt.
“Tiến lên Cộng sản
chủ nghĩa rồi th́ khi ấy… xă hội loài người có c̣n giai cấp nữa
không?”
“Không! Xoá sạch
hết giai cấp!...”
“Thế c̣n
đấu tranh giai cấp?”
“Hết! Hết giai cấp
đấu tranh! C̣n giai cấp nào nữa mà đấu với tranh!”
Thầy
cười. Hắn cũng cười.
“À… mà vẫn c̣n đấu
tranh chứ? Đấu tranh với ai, biết không?
Đấu tranh với Thiên nhiên. Phải làm chủ Thiên
nhiên. Bắt Thiên nhiên phải
mưa nắng theo ư của con người chúng ta! Không
được băo lụt, hạn hán, động
đất, sóng thần lung tung…”
“Phải trèo lên
đầu, cỡi lên cổ Thiên nhiên… Nhong nhong ngựa ông… Nếu Thiên nhiên không chịu
nghe lời làm theo th́ đè xuống,
ngồi lên lưng, bóp dái… Cấm không được kêu. Hà
hà. Nếu mày không chịu làm theo
tao, th́ tạm thời tao cứ vắt đất ra nước
thay trời làm mưa, nghiêng đồng đổ
nước ra sông cái đă! Có phải thế không ạ?
Thưa đồng chí…”
Người-vô-h́nh chững
lại. Hắn cảm thấy ta và hắn, hắn và ta h́nh
như cả hai đều đă ít nhiều buông lơi quan
điểm giai cấp, đi
chệch ra hơi xa đấu tranh giai cấp, bèn quay
trở về tư thế cũ, lên giọng huấn
thị răn đe ngay:
“Này, ta báo cho ngươi
hay. Từ nay cho đến khi kết thúc thắng lợi cuộc
đấu tranh cuối cùng, giai cấp vô sản thế
giới, quần chúng công nông binh, nông dân Quân Chủ lực chúng ta… có
rất nhiều kẻ thù
và phải tiêu diệt cho kỳ hết những kẻ thù
đó! Giết! Giết! Giết
hết!”
“Đồng
chí nói… con số đến cả một phần ba nhân
loại ḱa mà!”
“Không
có đùa! Một phần ba chứ hai phần ba cũng
phải … giết! Mày nằm
trong con số đó…”
“Nhưng… tôi đâu
có phải là kẻ thù!”
“Đă nói đi nói lại
rồi! Ai cho rằng ḿnh không phải là kẻ thù th́ chính hắn là kẻ thù!”
“Sao lại thế?”
“Ai tự cho rằng ḿnh không
có kẻ thù th́ chính hắn trở thành
kẻ thù của tất cả mọi người! Bởi
cớ sao? Bởi v́ cái tên đó, là mày chẳng
hạn, suốt đời có bao giờ đấu tranh
bảo vệ cho ai đâu… cho nên cứ tưởng là ḿnh
không có kẻ thù. Tại mày ngu ngơ
không biết đó thôi, chán vạn kẻ căm ghét mày, coi
mày là kẻ thù của họ. Có đúng không?”
Thầy
bắt đầu cảm thấy chờn chợn, rờn
rợn trước cái lư lẽ ghê
gớm, chết người đó.
“Nhưng… Tôi đă
một đời yêu thương, quư trọng, cứu giúp nhiều người!…”
“X́! Mày đă từng làm công
chức cho Pháp, ăn lương của Tây… Đế
quốc thực dân, địa chủ phản động,
công giáo tay sai của Pháp, Việt gian bán nước cho Tây…
Mày cũng thương yêu, cứu
chữa, giúp đỡ… chúng nó? Hử?!”
“Đâu có!” Thầy
cảm thấy đuối hơi, chới với.
“Này, hăy nghe ta hát khúc ca này. Nghe!
Chúng ta thề phá tan quân thù: thực dân, đế
quốc, sài lang với phe phản động ta đập
tan à hoang!… Kết đoàn! Chúng ta là sức mạnh! Kết
đoàn chúng ta là sắt
gang! Đoàn kết ta bền vững! Dù sắt hay là gang. Dù
sắt hay gang c̣n kém bền vững!… Cái bài ca hay nhất
mà Bác Mao và Bác Hồ, cả hai Bác đều rất thích,
mày lại c̣n không biết hay sao,
hở Vỹ?”
“Vâng, tôi cũng biết hát và
thuộc ḷng bài Đoàn Kết đó, nhưng mà…”
“Chẳng nhưng
chẳng mà cái ǵ hết! Đế quốc, phản
động… Chúng nó là kẻ thù! Chúng ở đâu mày
biết không? Ở bên Tây, ở ngoài mặt
trận và ở ngay… trong mỗi một cái thằng như
mày. Đúng chưa? Mày đă
từng học tập chính trị, chỉnh huấn… c̣n
lạ ǵ nữa, biết tỏng ṭng tong rồi,
thực dân đế quốc, Việt gian phản động… chúng nó nằm trong tư
tưởng, ăn sâu vào tác phong của mày!”
“Vâng, tôi hiểu, và tôi đă
thành khẩn bộc lộ ưu khuyết điểm, phê
và tự phê và tôi đă lột xác cải tạo, tẩy
rửa… làm theo đúng yêu cầu của Cách mạng,
của Đảng…”
“X́! Mày th́ chỉ có khuyết
điểm, làm chó ǵ có ưu điểm? Hử? Đă là
địa chủ phản động th́ chỉ có cấu
kết làm tay sai cho đế quốc chứ làm sao tẩy
rửa, cải tạo, lột xác nổi! Hử! Mày là kẻ
thù! Chính mày là kẻ thù một
trăm phần trăm của nông dân, của dân tộc!
Hiểu chưa? C̣n chối căi nữa hay thôi?”
Lạ thật! Tự nhiên
thầy thấy ḿnh thiểu số, nhỏ bé đến vô
cùng tận. Cái
Người-vô-h́nh này do Bác Mao đẻ ra, rồi ai đó
kéo lôi vào đất nước ḿnh là hoàn toàn có lư và
đúng đắn. Thế gian này
ngập ngụa, chen chúc những kẻ thù. Con số
một phần ba là chưa đủ, e chừng có khi
hơn. Thầy đă học lịch sử Cách mạng
Pháp. Đâu chỉ có vợ chồng Louis 16, nhà bác học
Lavoisier… mà rồi đến
cả Robespierre, người đă làm cho nhiều cái
đầu rơi xuống, đến lượt cuối
cùng là ḿnh rồi cũng… “porter sa tête sur l’échafaud”. Rơi đầu!” Cái
đầu con người ta quan trọng là thế rồi có
lúc cũng phập một phát, sật một cái… cắt
đi, rời ra, rớt xuống… như củ khoai sọ!
Người-vô-h́nh có lư lắm. Mai Duy Vỹ th́ đă là cái
ǵ đâu!
Thầy ngây thơ
hỏi:
“Dạ, nếu vậy th́…
Trong gia đ́nh, cha mẹ, con cái, anh em, bà con… có là kẻ thù của nhau không? Thưa
đồng chí…”
“Trước khi trả
lời mày, ta muốn xác định rơ: Ta không có
đồng chí, đồng rận ǵ với mày hết! Mày
là kẻ thù kia mà! Đă nói rồi, lại quên sao?”
“Nhưng mà…” thầy nói ngay
để cho hắn không kịp ngắt lời. “Đồng chí, đồng rận ǵ ǵ
nữa, rồi cũng có lúc trở thành kẻ thù của nhau! Điều ấy có
lẽ… là không sai”.
“Ừ… ừ… th́…”
Hắn lưỡng lự. “Th́ cứ gọi là đồng
chí cho nó xong. Cũng không sao! Đó là cái lối xưng hô
tiện lợi nhất của thời đại chúng ta!”
Tự nhiên hắn
dịu giọng:
“Đồng chí
nhắc lại câu hỏi vừa nêu ra…”
“Trong một gia
đ́nh th́ ông bà, cha mẹ, anh em, bà con… có là kẻ thù của
nhau không?”
“Sao lại không
nhỉ? Gia đ́nh là một xă hội thu nhỏ. Xă hội có
đấu tranh giai cấp th́ gia đ́nh cũng có
đấu tranh giai cấp. Không
đấu tranh th́ gia đ́nh làm sao củng cố
được khối đoàn kết liên minh vững
bền? Vợ phải đấu tranh với chồng.
Chồng phải đấu tranh với vợ… Con cái
phải đấu tranh với cha mẹ! Ấy là
chuyện thường ngày trần tục. C̣n trong
đấu tranh chính trị th́ vấn
đề giai cấp được ưu tiên, đặt
lên trên hết! Lúc bấy giờ, quan hệ trong gia đ́nh là quan hệ giai
cấp. Nghĩa là không phải chồng bảo ǵ
vợ cũng phải tuân theo; cha mẹ nói ǵ con cái cũng
phải nghe theo! Phải
đấu tranh chống lại tư tưởng phong
kiến, tàn dư bóc lột trong đầu óc họ.
Và khi cần, phải tố cáo những hành vi phản
động, chống phá giai cấp trước quần
chúng, trước Đảng! Lúc bấy giờ, dù
chồng ḿnh đi nữa th́ vẫn cứ là kẻ thù.
Vợ phải đấu tố chồng! Dù cha mẹ ḿnh
đi nữa cũng vậy thôi, là kẻ thù, con cái phải đấu tố cha
mẹ! Dĩ nhiên, muốn đấu tranh th́ phải
tố giác. Nói gọn và rơ hơn là muốn đấu
th́ phải tố! Đấu tố! Đấu tố! Và… đấu tố!”
“Đồng chí nghĩ ǵ khi
dân gian người ta nói: “Công cha như núi Thái sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một ḷng thờ mẹ kính cha, cho tṛn chữ Hiếu
mới là đạo con!… Anh em,
như thể tay chân…”
“X́! Chuyện cũ xưa
rồi! Cha mẹ sinh chúng ta ư? Đúng vậy. Nhưng khi họ nuôi chúng ta lớn lên
rồi, chúng ta lại thuộc về Giai cấp,
về Đảng. Tổ quốc, Đồng bào là trên
hết! Cha mẹ sinh con ra, nuôi
dạy đến khi chúng nó lập gia đ́nh, sinh con cái…
rồi chúng nó cũng thành cha mẹ. Nếu nói cha mẹ là
trên hết th́ ông bà là bố mẹ đẻ ra cha
mẹ, lại c̣n phải đặt lên trên nữa, rồi
c̣n cố kí, cụ kị đẻ ra ông bà… th́ sao? Cái này
trên cái nọ, cái nọ trên cái kia, cái kia trên cái nớ, cái
nớ trên cái í… Cái kiểu sắp xếp ngôi thứ như
thế chính là mầm mống sinh ra, nền nếp tạo
dựng thành chế độ phong kiến! Cực kỳ
nguy hiểm! Trung với Nước
hiếu với Dân, thế là quá đủ! Khỏi phải
khen chê, trách móc nhau. Đó là tiêu chuẩn sáng giá
nhất để xếp loại Đạo đức
của con người!”
Hắn lại cao
giọng ngân nga như hát:
“Vợ chồng lấy nhau
ư? Th́ đó là sự kết hợp tự nhiên giữa
hai Cái Con, hai giống Đực Cái. Cũng tốt thôi!
Chẳng có vấn đề ǵ!
Tuy nhiên cũng phải điều tra lại ba đời,
đánh giá bản chất, đề ra phương án
hành động cho từng trường hợp theo quan
điểm giai cấp đúng đắn.
Chẳng hạn, nếu hai
vợ chồng cùng xuất thân từ tầng lớp nghèo
khổ bần cố th́ vấn đề đấu tranh
giai cấp chỉ c̣n là củng cố, xây dựng khối
đoàn kết liên minh, vậy thôi. Nhưng nếu xuất
thân từ hai thành phần khác nhau, th́ phải cương
quyết đấu tranh giai cấp đến cùng
để phân loại nhau, và nếu cần th́… loại bỏ nhau! Lấy ví dụ, vợ
xuất thân từ thành phần bần nông, trung nông
lớp dưới mà chồng là địa chủ phong
kiến th́ dứt khoát vợ phải đấu tố
chồng đến cùng!
Nếu đồng chí lấy
vợ lẽ, th́ con vợ hai, vợ ba của đồng
chí thực chất chỉ là
đứa ở cho hai vợ chồng đồng chí,
bởi họ đă bị đè nén, chịu áp bức
đến hai ba tầng! Cho nên, hai mụ vợ hai, vợ
ba phải đoàn kết thành
một khối liên minh công nông, vùng lên đấu tố
mụ vợ cả và thằng chồng (tức là vợ
chồng đồng chí)!”
Phải bấm bụng, thót
hốc đít để khỏi văi ra cười, thầy
nói ngay:
“Thưa đồng
chí! Chẳng cứ ǵ phải lấy tới hai ba vợ,
chỉ cần một vợ duy nhất
thôi, đàn ông chúng ta cũng đă thường xuyên
phạm tội áp bức, bóc lột đàn bà rồi! Cho nên
tôi đề nghị, phải phóng tay phát động
tất cả chị em phụ nữ, đàn bà vùng lên! Và
mỗi gia đ́nh, phải để cho các bà vợ
được đấu tố chồng! Chẳng phải họ đều là tầng
lớp bị áp bức bóc lột cả hay sao?”
Người-vô-h́nh dừng
lại, ư tứ. Có thể hắn chưa quen mà cũng
chẳng ưa lối đùa của bọn tiểu tư
sản trí thức, cái bọn mà Bác Mao vẫn đánh giá
xếp loại là chưa bằng cục cứt. Hắn
xẵng giọng:
“Mày định nói
ǵ? Ám chỉ ai thế, Vỹ?”
Thầy b́nh tĩnh
trả lời với một sự tự tin rằng ḿnh
đang áp đảo Cái
Chết.
“Tôi đang biện
luận về sự áp bức giai cấp đúng như
quan điểm hận thù giai
cấp của đồng chí”.
Thầy nh́n hắn
tần ngần và lấy làm lạ về sự lựa
chọn ngôi nhân xưng: Đồng chí! Hai
tiếng “Đồng chí” vốn có từ bên Tàu, không phải, có lẽ từ bên Liên Xô
qua Tàu, dịch nghĩa biến âm rồi lưu
truyền sang ta. Hai tiếng đó cào bằng, xoá sạch,
thay thế vào tất cả các
ngôi thứ. Hăy coi chừng và cảnh giác! Đồng chí…
“Được
rồi. Cho đồng chí phát biểu ư kiến!”
“Tôi nghĩ rằng,
dù ai đi nữa, đă là một đồng chí chồng
th́ đêm tới
thường hay giở tṛ áp bức bóc lột đồng
chí vợ. Cái lề thói cũ
xưa bắt đàn bà nằm dưới để đàn
ông chồm đè lên trên là bắt nguồn
từ bản chất, xuất phát từ quan điểm
phong kiến mà ra. Ngay cái chuyện đó thôi đă nảy
sinh mối thù mang tính giai cấp rồi.
Nói như vậy có nghĩa là
tất cả các đồng chí từ Mao Chủ tịch
vĩ đại trở xuống đều gây ra mối
thù giai cấp, mâu thuẫn đối kháng. Cho nên, bây
giờ ta phóng tay phát động cho các đồng chí
đàn bà vùng lên, đảo ngược trở lại,
để họ nằm lên trên, bắt các đồng chí
đàn ông nằm xuống dưới. Như thế may ra
mới xoá bỏ được
phần nào ách áp bức phong kiến, mối hận thù giai
cấp. Có phải không
ạ?”
Người-vô-h́nh im lặng,
không thấy phản ứng ǵ. Cuối cùng hắn nói: “Giai
cấp tư sản, bọn tư bản Phương Tây
vẫn ưa làm cái tṛ đảo ngược đó. Chúng
cho đàn bà nằm lên trên, đàn ông
nằm ở dưới… Nhưng xét cho cùng, đó chỉ
là tṛ cải lương giả hiệu, không phải
là Cách mạng, chẳng giải quyết được yêu
cầu cấp thiết ǵ của quần chúng Công Nông Binh…”
“Nếu vậy th́… hay là… ta
sắp xếp lại hai lực lượng cách mạng
này cho nó ổn thoả hơn: Không nằm nữa mà cùng
đứng, mặt đối mặt, áp sát vào nhau! Thế
là, hết áp bức bất công, hết hận thù giai
cấp! Ha! Ha! Ha!”
“Cười cái ǵ?” -
Người-vô-h́nh hét lên - “Toàn là những tṛ Cách mạng
giả hiệu cả. Đâu phải là Cách mạng
thật sự, Cách mạng chân chính! Phải tiếp
tục làm Cách mạng vô sản! Phải chuyên chính đến tận cùng! Sau cuộc Cách mạng trời long đất lở
này phải tiếp tục
làm cuộc Cách mạng
đất lở trời long khác! Cách mạng không ngừng!”
“Nếu vậy th́
đến khi nào mới thôi Cách… cái mạng?”
Thầy hỏi lại,
dẫu rằng có hơi vui đùa, mà sao ḷng thầy đầy xúc động hân hoan. H́nh
như cảm nhận được sự băn khoăn
chân thật đó, Người-vô-h́nh cũng đắc ư và
hào hứng:
“Đến khi nào trên toàn
thế giới xây dựng xong chủ nghĩa Cộng
sản, xoá bỏ hết giai cấp… Đă nói từ lúc năy.
Quên rồi à? Khi nào tất cả các nước đều
nhổ vứt hết các cột mốc biên giới,
chẳng ai thèm lấn chiếm của ai một tấc
đất; tất cả đều là của chung, của
anh cũng là của tôi. Bốn phương vô sản
đều là anh em. Đất
nước Việt Nam là của Trung Quốc… Và… Tổ
quốc Trung Hoa là Mẹ chung của tất cả
chúng ta! Bác Mao nào phải đâu xa, Bác Hồ ta đó chính là
Bác Mao! Ha ha!”
“Có nghĩa là… đến cái
ngày con anh cũng là con tôi, vợ của
anh cũng là vợ… của tôi!…”
“Vỹ!” - Hắn hét to - “A?
Thằng này láo nhỉ? Mày đă nhận ra cái tội
lỗi của mày chưa?”
Sự chuyển đổi
đột ngột trong giọng điệu thái độ
của Người-vô-h́nh khiến thầy hụt hẫng
loạng choạng. Mối thù giai cấp, mâu thuẫn
đối kháng giữa người với người,
giữa hai cái giống đực cái theo kiểu này th́
đời đời kiếp kiếp e cũng không thể
nào hết được. Mà có lên tới chủ nghĩa
Cộng sản đi nữa, có khi đă không giảm
bớt lại c̣n gia tăng rắc rối, ác nghiệt
hơn!
Thầy ấp úng:
“Tôi thừa nhận
rằng tôi có bóc lột bà con nông dân, đúng thế, nhưng tôi không có áp bức ǵ ai
cả, ngoài vợ tôi… Đó là theo quan
điểm đấu tranh giai cấp của đồng
chí mà tôi suy diễn, chứ thực
ra hai chúng tôi xuất thân cùng một giai cấp. Có khác
chăng tôi là địa chủ phong kiến, c̣n
vợ tôi là địa chủ… nông dân. Cùng một bản
chất giai cấp giống nhau làm sao có mâu thuẫn đối kháng? Tôi thương yêu
vợ con tôi, tôi chẳng thù ghét ai trên đời này cả. Tôi chưa
hề làm hại ai, trái lại…”
“Vỹ!” -
Người-vô-h́nh gằn giọng, nghe c̣n rơ và dữ
dằn hơn gầm thét. -
“Giờ tận số đến rồi mà mày vẫn c̣n
ngoan cố hử? Tao nhắc lại cho mày nghe. Mày
là tên địa chủ cường hào gian ác, phản động bán nước;
vợ mày là con mẹ địa chủ bóc lột, hà
hiếp, áp bức bà con nông dân. Mày phải khép vào
tội chết và chịu án tử h́nh! C̣n vợ mày, con cái
mày th́ cho sống để lao động cải tạo,
trả nợ đền ơn bà con nông dân bần cố
cho đến tàn đời, hết kiếp nghe chưa?”
Người-vô-h́nh vụt
biến sau cánh cửa khoá hai ṿng xích sắt.
Vệt sáng
đỏ từ tay hắn vừa phóng ra nhắm thẳng
vào đầu thầy.
Một tiếng nổ không to lắm nhưng rất chói và
đau xé.
Thầy
ngật người ra sau, đổ vật xuống
nền nhà.
CHƯƠNG 39
ĐỒNG
HỒ SỐNG. SỰ SỐNG TRONG
SIÊU NHÀ TÙ, SIÊU
ĐỊA NGỤC
Trời vẫn
tối! Không hiểu bây giờ là mấy giờ?
Đă lâu rồi thầy
mất thói quen xem đồng hồ, coi giờ. Tự nhiên nhớ lại hai cái đồng
hồ ḿnh đă dùng trong đời.
Cái đồng hồ quả
quít Thụy Sĩ thầy mua vào những năm 40 ở
hiệu Tàu có sợi dây bạc đeo cất, bỏ túi…
rất tốt. Dạo ấy
Lệ Uyên chưa sinh. Một lần thầy bỏ quên,
đánh mất nó ở đâu cũng không biết. Bà
nội có ư ngờ cho anh Nuôi. Mẹ
th́ lại nghi chú Đông. Cũng chỉ v́ vậy mà anh Nuôi
khóc lóc, thề thốt, doạ nhảy xuống
giếng tự tử. Mẹ chồng con dâu căi lộn. Bà vẫn thường bênh che cho chú
Đông, kể cũng lạ, và có phần khắt khe
với con đẻ, con dâu!
Cái đồng hồ thứ
hai đeo tay nhăn hiệu Niklès - Made in France là của một đồng chí tặng.
Tiểu đoàn trưởng
Lê Hải Ba được thầy mổ ruột thừa,
sau khi lành đă cởi tháo đồng hồ đặt vào
tay thầy. “Tôi tặng anh vật này làm kỷ niệm. Có thể một ngày nào đó
chỉ c̣n lại nó trên đời này và… anh sẽ
nhớ đến tôi…” Đồng chí ấy nói mà rưng
rưng nước mắt.
Thầy từ chối không nhận.
Hồi ấy đồng
hồ là vật quư hiếm. Cái Nikles lên dây cót đó phải
mua ở Hà Nội hoặc vùng tề đưa ra. Dẫu
rằng một mạng sống được cứu sinh
là chuyện ân nghĩa khó quên, thầy cũng không nỡ nhận món quà quư của
bệnh nhân mà bệnh nhân đó là một đồng chí,
một người lính Cụ Hồ.
“Người thầy thuốc
rất cần đồng hồ, cần hơn ai hết,
anh giữ lấy nó… cho tôi vui ḷng.” Tiểu đoàn
trưởng nài nỉ.
Bây giờ nhớ lại, nghĩ
tới câu nói của đồng chí ấy mà thấy như điềm gở... “Chỉ
c̣n lại nó trên đời này”.
Quả đúng thế. Tiểu đoàn trưởng pháo binh đă hy sinh ở mặt
trận Điện Biên, c̣n Mai Duy Vỹ này mạng sống
đang được đếm từng giây, từng phút…
Đột nhiên, thầy
đặt tay lên phía trái ngực và kinh ngạc cho trái tim
ḿnh. Tic tac! Tic tac! Nó vẫn c̣n đập? Thật kỳ
lạ. Tic tac tic tac… Đă bao năm rồi, mỗi lần
cầm ống lắng đặt lên ngực bệnh nhân, dùng ngón tay bắt mạch
bệnh nhân mà sao y sĩ Mai
Duy Vỹ lại không cảm nhận được trái tim
con người mới là cái đồng hồ đích
thực. Cái đồng hồ đếm đo mạch
sống của con người vô tư, hào phóng, kỳ
diệu phi thường! Ôi trái tim con người chúng ta!
Quả tim Mai Duy
Vỹ vẫn c̣n đập! Thầy muốn la to lên cho mọi người nghe, cho cả nhân
loại biết.
Nhịp đập đầu
tiên của nó là lúc c̣n nằm trong thai mẹ! Mẹ ơi! Mẹ đă cho con
một sinh mệnh, một đời sống. Vậy mà
bây giờ người ta lại nỡ cướp nó,
giết nó đi! Con có tội t́nh chi! Đă không được sống
để báo đền ơn sinh thành của thầy
mẹ, lại c̣n để người ta giết
mẹ ḿnh đi! Làm con mà không cứu sống
được mẹ sao c̣n có
thể gọi là con, là mang tội bất hiếu bất
nghĩa biết mấy
lần! Trời đất ơi!
Thầy bưng mặt khóc.
Khóc không thành tiếng. Và ngạc nhiên
sao ḿnh vẫn c̣n nước mắt để mà khóc?
Điều kỳ lạ! Vậy là sự sống
trong con người ḿnh vẫn c̣n? Lần này, nếu
họ không giết thầy, cho thầy ra khỏi nhà tù,
chắc thầy lại sống, tiếp tục sống như mọi người
được tha khác. Nhưng cái buồng giam trong đ́nh
làng này nghĩ cho cùng không thể gọi là nhà tù
được. Nó đâu có giống Hoả Ḷ, Lao Bảo,
Kontum, Côn Đảo… Nó là Siêu nhà
tù! Siêu địa ngục!
Con người là một
động vật kỳ lạ! Thầy nghĩ ngợi
miên man. Nếu ḿnh là con chó, con
mèo, con trâu, con ḅ… ừ cứ cho là con cọp đi
nữa, mà bị ngược đăi hành hạ như
thế này chắc chắn là nó
đă chết trong một thời gian ngắn, vài ngày,
dăm mười ngày!… Vậy mà Mai Duy Vỹ này
vẫn c̣n sống, vẫn chịu đựng được mọi ngón đ̣n
hiểm hóc, tai ác, chết người!
Sự chịu đựng,
sức sống này có từ đâu? Có phải từ trong bào
thai mẹ sinh ra? Có đấy. Nhưng chỉ một phần
thôi. Sức đề kháng, thích
nghi kỳ lạ này lại chính là do nhà tù sinh ra. Ai có ở tù mới
hiểu được điều này. Hơn hết mọi nhà tù trên thế gian này là nhà tù Cải cách Ruộng
đất! Nhà tù Siêu phong kiến! Nhà tù Siêu đế
quốc!
Cảm thấy ḿnh
như vừa khám phá ra được điều ǵ
mới lạ, một phát
minh trong Y học, thầy nở một nụ cười
ngây thơ…
Nụ cười
chợt tắt. Ḍng lệ từ trong hai hốc mắt
lại ứa ra.
Nước mắt ḿnh vẫn
c̣n? Vậy là ḿnh vẫn sống. Câu hỏi, câu trả
lời cứ lặp đi, lặp lại.
Mai Duy Vỹ này đă tận mắt
thấy con người ta lúc lọt ḷng mẹ, cất
tiếng khóc. Chính bàn tay Vỹ đỡ đẻ và không
ít người đă ngợi khen là khéo tay mát tay hơn
cả các cô đỡ Sage-femme. Nghiên,
Hoà, Lan… các cô đều mê Vỹ!
Vỹ đă thấy ḍng
lệ người mẹ trào lên má, giọt nước
mắt trẻ sơ sinh hiện
ra cùng tiếng khóc: Tôi đă sinh ra một con người cho đời! Tôi là
một con người
đây!
Mà đâu chỉ con người, Vỹ đă từng
thấy con chó Vện khóc, con trâu cái nhà ḿnh khóc… lúc chúng
nó chết. Thế đấy! Vậy mà bây giờ những
giọt nước mắt của Mai Duy Vỹ đang trào
ra đây lại không có một con
người nào trông thấy cả. Có ai thương xót Mai
Duy Vỹ này không?
“Không!”
Tiếng búa nện. Phát súng
nổ. Chát chúa lỗ tai. Buốt nhói cả tim óc.
Thầy gục xuống.
Chẳng cần tới một nhát búa, một phát súng ḿnh
cũng đă chết. Và đang chết đây!... Thầy
nằm yên không động
cựa.
CHƯƠNG 40
QUỶ
NGƯỜI - NGƯỜI QUỶ
Có tới bảy tám con
quỷ… Thầy đoán chừng vậy. Bởi v́ nh́n toàn thân th́ có vẻ giống
giống con người,
cũng hai chân hai tay,
nhưng cái mặt th́ khang khác, là lạ…
Nếu là con trâu, con chó, con
cọp… th́ cái sừng, cái mơm, móng móng vuốt của chúng
đều biểu thị cái ǵ đó thuộc về ṇi
giống của chúng. Đằng này… đít giống như
mặt, mặt na ná như đít? Mắt và mồm là hai cái
lỗ - mồm ở trên, mắt ở dưới. Và h́nh
như… chúng có đuôi? Cái đuôi thay cho cái tay, ngoắc
ngoéo, móc nối nhau biểu thị sự đồng
cảm, đồng t́nh. Đặc biệt hai cái tay xoè
cụp, rung rinh… rất nhạy bén trước mọi
tiếng động, trạng huống. Chúng nói với nhau
những ǵ thầy không nghe rơ. Ao
áo, nháo nháo… báo cáo… láo nháo… xạo xạo… đả… ảo…
đảo … đảo… í í… lí bí… chí chí… đồng ư…
Hồi nhỏ, ḿnh
cứ suy từ loài vật mà h́nh dung ra con quỷ. Đầu
trâu mặt ngựa có ǵ đáng xấu đâu. Thật sai
lầm! H́nh như đoán ra được ư nghĩ
của thầy, bọn quỷ biến h́nh trở thành
những bóng đen. Trông chúng lại có vẻ giống con
người hơn. Thầy
bắt đầu so sánh phân loại bằng cách lặp
đi lặp lại hai mệnh đề tương
phản nhau: con người là con quỷ - con quỷ là con
người. Rồi, người là quỷ - quỷ
là người. Rồi người-quỷ, quỷ-người… quỷ-người, người-quỷ!…
Thầy lặp đi lặp
lại như một tṛ chơi lúc c̣n học lớp
đồng ấu, tiểu
học.
Hồi ấy, thầy và chú
Đông ngồi đối mặt với nhau, giơ tay ra
vỗ chéo vào bàn tay nhau, miệng th́ kêu: chó, mèo… mèo chó… Cứ thế tranh nhau nói; cho
đến khi nào mỏi mồm, ră mép, răng lưỡi
va cắn vào nhau… Rồi cuối cùng, dừng lại.
Một tay anh này chỉ vào
mặt anh kia la lên: “Chó!”
Con chó, con mèo biết con nào xấu hơn
con nào? Con chó có ǵ là xấu đâu! Vậy mà chú Đông vùng
vằng, ấm ức đến phát
khóc; lại chạy vào mách với bà nội là anh Vỹ anh
ấy bảo con là con chó! Và bà th́ lúc nào chả
thế, lại bênh thằng Đông, đe mắng thằng Vỹ!
Bây
giờ thầy đang thử cố sức lặp đi
lặp lại hai tiếng người-quỷ,
quỷ-người… và định bụng đến
một lúc nào đó, hết hơi rồi, hoặc lư trí không c̣n kiểm soát, chế
ngự được đầu óc nữa th́… cái tiếng
cuối cùng ấy là một phán quyết đúng đắn
nhất.
Người… quỷ!
À ra
vậy. Con người chính là con quỷ! Ông Pasteur khi t́m ra
vi trùng bệnh chó dại - khám phá ấy cũng chưa quan trọng bằng phát minh này của
Mai Duy Vỹ! Phát minh này sẽ mở ra con đường
mới, tránh cho nhân loại bao thảm họa tai
ương.
H́nh
như bọn quỷ này
đă nhận ra mưu đồ, biết được
tư tưởng, nắm chắc quan điểm chính
trị của Mai Duy Vỹ… Cả lũ xúm lại, vật ngửa, chận đè lên
người thầy:
-
Không cho nó ngóc đầu dậy!
Một
con kêu lên. Mấy con kia chồm tới, bóp cổ thầy
một lúc cho đến nghẹt thở rồi từ
từ buông ra. Con lớn nhất, cũng là đầu đàn, lănh đạo
cả lũ, dựng thầy ngồi dậy, dùng tay
bịt mồm. Con nhỏ hơn, cũng thuộc hàng
lănh đạo, chổng đít lại, lấy cái đuôi ngắn ngủn ngoáy ngoáy
chọc chọc vào hai lỗ mũi thầy…
-
Mặc quần áo liệm vào cho nó! Mau lên, Quân Chủ
lực!
Hai ba con
cùng “dô nào” bắt tay ngay vào việc. Chúng làm nhanh đến
nỗi ḿnh chưa kịp vùng vẫy, đă mặc gọn
vào người một bộ áo
bằng vải xô trắng, thứ vải thô tháp mà
người ta thường khâm liệm khi đặt
tử thi vào quan tài…
Thầy
hoảng sợ, kinh hăi định la thét lên th́ lạ
chưa, lũ quỷ bỗng chốc biến đi đâu hết?… Chỉ c̣n một
ḿnh Mai Duy Vỹ, thầy của mẹ và các con giữa cơi
Trần gian.
CHƯƠNG
41
ĐẤNG CHÍ TÔN, CHÍ THÁNH, CHÍ THẦN…
Thầy
đang đứng ở một con đường.
Nh́n quanh
chẳng thấy cái ǵ hết. Không một mái nhà, không
một con người, con vật, không một bóng cây. Màu
trắng đục bao quanh, không phải mây, chẳng là
sương mù. Chẳng có h́nh bóng ǵ cả. Sắc sắc
không không. Bỗng nhiên thầy nhớ tới bốn
tiếng trùng âm ông nội con nói ngày xưa… Sắc sắc
không không… Có lần thằng c̣ Vỹ ở truồng,
chẳng mặc quần áo, từ ngoài giếng vừa
tắm xong, chạy vào nhà la lên: “Không không sắc sắc giơ cặc ḷi cu… ḿnh mẩy thu lu, ai
cho th́… đút!” Chẳng hiểu ai bày cho thầy, anh
Nuôi th́ phải, cứ thế mà ca mà hát… Từ dưới bếp tới trên nhà, ai nấy
được một mẻ cười no nê.
Hôm đó,
ông Cử Mai, ông nội con đang tiếp ông Cử Hồ
bên Hà Trung sang chơi. Mỗi lần gặp nhau ngồi bên
ghế trường kỷ hai
ông Cử thường hay nói chữ. Ngoài “sắc sắc
không không” lại c̣n “vô vi”, “tri túc”… thầy chẳng
hiểu ư nghĩa của những cái đó là ǵ?
Thấy
mọi người vui cười hoan hỉ, lại
bắt gặp con ḿnh đang nồng nỗng ngoài sân trông
như thằng ngộ, trước mặt khách, bậc túc
nho tri kỷ, ông nội con bất b́nh đứng dậy,
bước ra sân, hỏi
chuyện đầu đuôi rồi nắm tay thầy lôi
vào nhà bắt nằm sấp xuống phản, thong
thả hỏi tội, quất cho hai roi vào mông đít…
Chữ
nghĩa thánh hiền, chuyện thần thánh, sao lại dám đem ra đùa cợt? Đứa nào
xui? Đứa nào bày? Nhớ lấy!
Bây
giờ cái sắc sắc không không ấy đang vây quanh
thầy.
Thầy
chợt nghĩ, đă sinh ra con đường là
để cho người ta đi;
ḿnh phải đi, không thể cứ đứng măi ở
đây được. Thế là thầy cất
bước. Vừa bước đi dăm chục
bước, chưa ǵ đă dừng chân. Ngoái lại nh́n, th́ lạ chưa, đoạn
đường phía sau lưng ḿnh không thấy
nữa, biến đi đâu mất? Sắc sắc không
không. Thầy suy lí: Vậy là con đường này chỉ
có mà đi tới, đi tiếp, muốn dừng chân
để quay trở lại cũng không được.
Con đường ǵ mà lạ nhỉ? Nhưng ta đang đi đâu, đi để làm ǵ?
-
Mai Duy Vỹ!
Một
tiếng kêu từ trên cao vọng xuống.
Thầy
sững sờ ngước nh́n. Tia chớp lửa loằng
ngoằng vẽ một con
đường giữa trời như con rắn
đỏ. Tiếp liền, tiếng sét nổ không to
lắm mà sao chói tai, buốt óc, rợn cả người.
-
Mai Duy Vỹ!
Thầy
giật ḿnh đứng sững nh́n cảnh tượng
lạ lùng. Trước mắt bây giờ chẳng c̣n
sắc sắc không không nữa mà da trời phía Đông, thầy tin là phía Đông, có lẽ
ma xui quỷ khiến như vậy chăng, đang ửng
lên một màu hồng sáng. Con rắn khi năy bây giờ
biến thành con rồng lửa uốn lượn, khép ṿng.
Ô ḱa! Một cái ngai màu đỏ.
Những tia vàng loé ra từ Ngai Đỏ và một vị
Vua, chỉ có thể là một Hoàng Đế thôi, đang
ngự trên đó.
Theo thói
quen, tính cố hữu trong khí huyết, cân năo của một người dân nô lệ Á Châu,
đầu gối chưa ǵ đă ră khớp, hai ống chân
nhũn mềm ra như bún, thầy vội vàng quỳ
xuống…
-
Mai Duy Vỹ!
Âm
giọng rền vang nghe như lưỡi gươm khua,
viên đạn rít trên đầu. Thầy
vội vàng lắp bắp:
-
Muôn tâu Bệ hạ!
- Ta không
phải là Vua, chẳng phải Tổng Thống. Hăy nh́n lên
đây!
Thầy
ngửa cổ, rướn đầu cao hơn:
-
Ta
là Đấng Chí Tôn, Chí Linh, Chí Thánh, Chí Thần, Chí…
Vừa
sợ hăi lại ṭ ṃ, thầy trố mắt nh́n. Một
mái đầu tóc trắng như
mây, vuốt ngược, loà xoà hai bên vầng trán rộng…
Đôi mắt ánh lên tinh thần của khoái lạc và
thủ đoạn, hoà điệu theo miệng cười
giả trá, hơi tuồng kịch… Cái mặt vừa
giả lại vừa thật có một sức hấp
dẫn đến nỗi thầy ngây dại nh́n và môi
nở nụ cười.
-
Mai Duy Vỹ!
Âm
giọng nghe rơ ràng, đanh rắn từ trên cao vọng
xuống.
- Ta
đây! Ta là người nô bộc trung thành của muôn dân.
Hăy nghe và trả lời những câu hỏi của ta!
- Dạ.
Con cũng là… - Thầy lắp bắp - đầy tớ
của nhân dân…
-
X́! Mi là thằng địa chủ phản động, bán
nước hại dân… lại không tự biết ḿnh hay sao?
- Dạ,
tôi là địa chủ - Thầy ngập ngừng suy tính.
Đang từ con chuyển sang tôi, thầy bỗng hốt
và sợ, như hai lần đấu quỳ trước
các ông bà nông dân. Trót đă lỡ lời… - Nói cho thật
đúng, cha đẻ ra con mới thật là địa
chủ, con là công chức, cán bộ… Nhưng chối căi
điều đó, con lại là một đứa con
bất hiếu với cha mẹ… Vâng, con là địa
chủ. Nhưng con đâu có phản động, bán nước, hại dân!
Im
lặng một lúc. Hoàng Thượng ngự trên Ngai
Rồng Đỏ h́nh như ít nhiều có phân vân.
Người thong thả điệu nghệ vuốt cḥm râu bạc…
-
Không ai tin điều mày nói cả.
- Dạ,
làm sao vậy? Kính thưa…. Muôn tâu… Dân người ta không tin
hoặc phủ nhận cố t́nh, điều đó có
thể hiểu được, bởi họ bị vây bọc, đè nén trong ṿng ngu muội,
bùa mê, tăm tối, dốt nát… nhưng c̣n Đấng Chí
Tôn, Chí Linh, Chí Thánh… Người thấu suốt cả sáu cơi…
Đấng
Tối Cao cười, lấp lửng.
-
Ngươi quên rằng… Ta cũng chỉ là kẻ nô
bộc trung thành của muôn dân thôi hay sao?
Thầy
gân cổ, căi lư:
- Con
cũng là đầy tớ… của dân. Vào Đảng
năm 1948, cho đến nay tính ra đă 7 năm v́ nhân dân
phục vụ, quên ḿnh hy sinh…
Đấng
Tối Cao cau mày, ra chiều lưỡng lự, cân
nhắc:
-
Biết vậy. Nhưng mà…
-
Nhưng mà sao ạ?
Thầy
chắp hai tay trước ngực, chờ đợi,
cầu khẩn.
Có
tiếng súng nổ vọng lên đâu đó, nghe xa mà lại
gần. Thầy rùng ḿnh cố
giữ hai đầu gối sao cho vững, t́ trên
đất.
-
Đồng chí Vỹ! Nghe đây - tiếng sấm
truyền từ trời cao xuống - Ta biết anh vô
tội, ḷng anh trong trắng. Nhưng… ta không thể cứu
anh được. Mà cho dù ta có muốn cứu anh, ban
lệnh xuống th́ đă chắc ǵ quần chúng nhân dân
người ta nghe cho? Cải cở thủ ti - Cải cách
Ruộng đất là cuộc Cách mạng lớn nhất
trong lịch sử đấu tranh giai cấp của dân
tộc, mang tầm cỡ nhân loại… Trong cơn trời
long đất lở này, sóng thần Cách mạng đang ào
ào dâng cao, cuộn tới, bánh xe lịch sử đang
lăn đi... Ai người
bị cuốn trôi, nghiến nát âu cũng là lẽ
thường t́nh. Miễn sao Cách mạng Thế giới
đạt được thắng lợi cuối cùng!
Có
một người phụ nữ ḷng dạ c̣n trong
trắng tốt đẹp hơn anh, c̣n đáng thương, đáng quư
hơn anh ở cách đây không xa lắm…
Một người đàn bà! Ta đau ḷng nhắc lại:
Một người đàn bà! Anh đă nghe rơ chưa?
Vậy mà ta cũng không cứu được! Mong anh thông cảm cho ta…
Đấng
Chí Tôn vụt biến. Trong mây mù c̣n vọng lại tiếng
sấm rền xa xa.
-
Ta... không… thể… cứu anh được!
Thầy
đổ vật người xuống, nằm lăn ra
giữa đường.
CHƯƠNG
42
PHÚT GIÂY… VĨNH BIỆT!
Mở
mắt… Thầy thấy mẹ đang ngồi ở cái
ghế nhỏ trước
mặt.
Vẫn
chưa tin đó là mẹ của các con. Trời ơi,
mẹ gầy ốm sút đi đến không thể
nhận ra. Có ai tin được rằng vợ của Mai
Duy Vỹ, bà y sĩ ngày
xưa mà bây giờ c̣n thảm hại hơn mụ ăn
mày năm đói Ất Dậu 45! Làm ǵ được là
đứa ở, con nuôi, đầy tớ nhà họ Mai!
Mẹ
nói, ông Đội trưởng người Nghệ An cho
phép vợ Mai Duy Vỹ
được vào thăm chồng… Nói xong, hai tay ôm mặt
khóc. Thầy bảo, đời người sớm
muộn rồi ai cũng một lần ra đi. Anh sắp
được gặp lại thầy mẹ, ông bà, tổ
tiên… Ḿnh em khóc thế đủ
rồi, khóc nữa kiệt sức, dành sức ở
lại mà nuôi con… Mẹ nói, ḿnh cứ yên ḷng mà ra
đi. Một phần đời em đă để dành ra
phụng thờ ông bà, tổ tiên, th́ nay phần c̣n lại,
xin trọn đời thờ
chồng! Anh đừng quá lo mà tâm linh làm bối rối,
xao xuyến người ở lại. Trời sinh voi
sinh cỏ. Các cụ đă dạy rồi. Mẹ con nhà
Vỹ sẽ vượt qua cơn hoạn nạn này.
Người ta không cho ḿnh ăn cơm th́ ḿnh ăn rau,
ăn cỏ. Cùng đường th́ ăn cóc, ăn nhái, ăn châu chấu… miễn là
sống được!
Thầy
bảo, nếu c̣n sống sót, em gắng nuôi dạy các con
nên người. Đói cho sạch, rách cho thơm. Dù
trời long đất lở, xă hội
loạn lạc, nhân t́nh đảo điên, vợ con cũng
phải cố mà giữ lấy phẩm chất, danh dự, đức hạnh
của ḍng họ Mai…
Thanh Tâm,
Lệ Uyên dẫu là con gái, chúng nó vẫn đại
diện cho ṇi giống, phẩm tiết của ḍng họ
Mai. Đầu tháng này, Lệ
Uyên bị ngộ độc sắn, không ai vào báo cho
thầy biết, chẳng ai cứu chữa cho con tôi
cả, quằn quại ôm bụng suốt cả một
đêm, may mà qua khỏi. Phúc phận nhà họ Mai vậy là
vẫn c̣n. Ôi, Thanh Tâm, Lệ
Uyên, các con của tôi, nỗi đau lớn nhất của
thầy trước lúc ra
đi là không được ôm các con vào ḷng!
Câu
chuyện trao đổi tới đó th́ anh dân quân vào báo
Đội bảo hết giờ
rồi, vợ thằng Vỹ phải ra ngay! Ừ th́
nhờ ơn Đội mà vợ chồng Vỹ,
thầy mẹ các con, c̣n được gặp nhau.
Đội mà không cho th́ cũng
đành chịu!
Mẹ nh́n thầy: Vĩnh biệt! Nói
được hai tiếng rồi quay ra, nón rách úp vào mặt, nức nở. Vĩnh biệt!
Đất
trời sụp đổ. Trần gian tan nát…
CHƯƠNG 43
NGÀY PHÁN XÉT CUỐI CÙNG.
ÁN TỬ H̀NH
-
Vỹ!
Thầy
hơi giật ḿnh, mở mắt ra. Họ vào khi nào mà ḿnh chẳng biết?
Gần
cả chục người đứng trong gian buồng
chật, quần nâu áo nâu,
đi chân đất, thật khó phân biệt. Định
thần một lúc thầy mới dần dần nhận
ra. Bốn người cầm gậy, quấn dây thừng.
Một người vai mang khẩu súng trường mut-ca-tông. Một người có vẻ khác
lạ bởi đôi dép lốp dưới cái xà cột bên hông, chắc là ông Đội
trưởng. Từ khi bị bắt, sau hai lần đấu,
có điều lạ là thầy vẫn chưa tận
mắt nhận rơ mặt được ông Đội này. Nghe
giọng nói, biết người Nghệ An, là bộ
đội Cụ Hồ…
-
Tháo cùm ra, bắt ló đứng dậy!
Y
tá Toành nói, vung văng tay chân, điệu bộ ra vẻ
chỉ huy. Họ xúm nhau
lại tháo cùm. Ổ khoá ngoắc nối dây xích cũ
rỉ rét lâu ngày khiến họ loay hoay, ngắc ngứ măi
với ch́a khoá xoay vặn, kéo
đi lôi lại làm vết loét hai cổ chân như bị
cưa, bị cắt. Thầy kêu rên. Họ càng mạnh tay
hơn.
Cùm lim vừa
được tháo gỡ, lôi nhấc hai ống chân
trầy trụa máu mủ, mụn nhọt ra… họ
để thầy ngồi yên một lúc. Hai anh dân quân xốc nách thầy
đứng lên. Thầy đổ vật xuống khiến
hai chàng gầy ốm loạng choạng cũng muốn ngă
theo.
-
Ló đói đấy. Ló chưa chết đâu mà no!
Vẫn
giọng Toành, khó lẫn vào đâu được.
-
Để cho ló thông cảm với cái khổ của bà con
lông dân bị ḍng họ Mai nhà ló
bóc nột đè lén hằng mấy mươi lăm lay.
Không
thấy những người kia nói ǵ. Họ đưa
thầy ra ngoài cửa buồng giam, nói cho đúng hơn, cái
buồng ngủ của ông từ
canh giữ ngôi đ́nh làng ta bao đời nay.
Ra
trước sân đ́nh, cái hơi khí tự nhiên của
Đất Trời làm ḿnh như được sống
lại. Quên cả rét tháng chạp, phong phanh quần áo nâu rách, thầy
ngước nh́n bầu trời xám: lớp lớp mây ùn ùn
đang theo gió mùa đông bắc tràn về. Cảm tạ
Đất Trời! Thầy muốn kêu lên. Lạy tạ
Nga Sơn, Mẹ quê hương đă sinh ra con! Không nỡ
tâm để Mai Duy Vỹ, đứa con tội nghiệp
oan khốc phải chết trong buồng giam, nơi xó
đ́nh mà được chết ở ngoài Đất Trời này! Chưa kịp chắp tay
cúi đầu, quên mất rằng ḿnh đang bị trói
trật cánh khuỷu hai tay sau lưng, xương khớp
hai ống chân như đă gẫy ră ra, thầy khuỵu
gục xuống sân đ́nh.
“Thằng
Vỹ đói! Phải cho nó ăn cái ǵ để nó tỉnh
dậy rồi mới dẫn nó ra ngoài trường
đấu được…”
Có
người đưa ra ư kiến như vậy. Giọng
nói của một người xa lạ không phải người
trong làng này. Một người đàn bà!
Một
người nữa lôi chiếc chiếu rách từ trong
đ́nh ra trải phủ lên
người thầy. Khoảng dăm mười phút sau,
họ kiếm đâu ra được một khúc
sắn luộc đă nguội lạnh, gại gại
cọ cọ mồm thầy, bảo ăn đi… Sực
nhớ tới lời các cụ năm xưa, ai đi
về Bên Ấy mà không có cái ǵ lót dạ, người
ấy sẽ trở thành con ma đói, lang thang vật vờ khắp Âm phủ… Đă bao lần
trong nhà thương, chứng kiến cảnh
người bệnh lúc sắp chết, cố gượng
dậy để người nhà đút vào mồm th́a cháo,
miếng cơm, ngậm cả thịt gà, thịt lợn… thầy cũng cố
ngậm lấy khúc sắn và nhai… để c̣n kịp
nhận ra quanh ḿnh hiện tại là những con
người chứ không phải những con quỷ.
Lạy
trời! Lạy người! Con xin cắn cỏ ngậm
vành cái ơn sâu người
đàn bà nào đă động ḷng nghĩ tới chuyện
cho Mai Duy Vỹ ăn cái ǵ đó trước khi chết!
Thầy
mở mắt… Bây giờ là mấy giờ? Buổi sáng hay
buổi chiều?
Đột
nhiên, một con quạ đen năy giờ đậu trên nóc
đ́nh rướn ḿnh, đập cánh rồi lao thẳng
vào bầu trời như quả đạn moóc-chi-ê…
Quạ… ạ! Qu… ạ! Nó kêu lên. Tưởng đâu nó
biến mất, ai ngờ một lúc sau lại quay trở
lại, bay một ṿng trên đầu mọi người.
Quạ… ạ! Quạ… ạ! Họa! Họa!… Từ
mỏ nó như vừa rớt ra
một cái ǵ không phải con mồi mà là vệt máu!
Rồi,
thật trùng hợp kỳ lạ! Một bầy ong vỡ
tổ, vù vù bay qua, cứ như
một đám người chạy loạn, chạy
giặc.
Họ
lại dựng thầy lên. Hai người xốc nách hai
bên. Kéo lê lết đi được chừng mười
bước, họ phải dừng lại. Hai chân thầy
như đă gẫy đôi không thể nào đặt
bước lên đất. Từ đây ra tới
đấu trường-băi bắn c̣n cả một đoạn
đường không phải ngắn. Chỉ c̣n cách là
đặt thằng Vỹ lên xe ḅ rồi cho trâu kéo. Họ
bàn nhau… Con trâu th́ có thôi nhưng
xe ḅ kéo th́ kiếm đâu ra. Họ lại đưa
ra sáng kiến cho Vỹ ngồi vào cái thúng, đặt vô
quang gánh, rồi dùng đ̣n càn
lồng vào quang gánh để hai người khiêng đi.
Người đề xướng ra cách lối tiện
lợi này là c̣ Toe, từ năy giờ đứng khuất
ở phía sau, nhưng lập tức bị y tá Toành phản
đối. “Nàm như thế hoá ra nà ḿnh hầu hạ
địa chủ, khiêng cáng ló như
ngày xưa khiêng vơng cáng quan huyện, như thế nà lô
nệ…”
Ư kiến
của hĩm Xoa đưa ra xem chừng được
hơn cả, tức là, trói chân trói tay thằng Vỹ
lại rồi buộc nó vào cây luồng, thay nhau khiêng đi. Như thế, vừa
nhanh chóng thuận lợi, đỡ mệt nhọc,
mà lại c̣n hạ được uy thế của giai
cấp địa chủ bóc lột, phản động…
Rồi
mặc cho thầy đau đớn kêu rên, họ làm xong
công việc đó chẳng mấy khó khăn.
-
Đồng bào, đồng chí chú ư!
Từ
ngọn cây xoan gần trụ sở Uỷ ban cũ,
một người ngồi trên
hai chạc cây tay cầm cái loa sắt tây, mồm áp sát…
đang đọc theo lời một người
ngồi bên tay cầm tờ giấy có ghi những ḍng chữ…
-
Đồng bào, đồng chí chú ư! Đúng hai giờ
chiều nay xin mời tất
cả bà con ta, bần cố nông, Quân Chủ lực Nông dân,
trung nông lớp dưới… không kể trung nông
cứng, phú nông… trẻ già lớn
bé, tập trung trước trụ sở Uỷ ban cũ,
xếp hàng theo tổ chức đoàn thể… sau đó, chúng ta sẽ kéo quân ra
trường đấu để tham gia đấu tranh,
đấu gục tên địa chủ bóc lột phản
động, thằng Việt gian bán nước Mai Duy
Vỹ...!
Hôm nay là
27 tháng Chạp, Đội sẽ thi hành bản án, tuyên án tử h́nh tên địa chủ
phản động, thằng Việt gian bán nước Mai
Duy Vỹ để bà con nông dân ta, các đồng chí
chúng ta được ăn một cái Tết Nguyên Đán
cho thêm phần vui vẻ, phấn khởi! A lố! A
lồ!
Như
vậy là ḿnh sắp chết rồi. Họ giết ḿnh
thật sự chứ không
phải đem ḿnh ra đấu như hai lần
trước đây.
Cái
Chết đến thật rồi mà sao Mai Duy Vỹ c̣n
trông chờ… Trông chờ cái ǵ
nữa! Mai Duy Vỹ vẫn c̣n ngây thơ, ngây thơ
suốt cả một đời ư? Thậm chí,
Vỹ c̣n nh́n lên mấy cành xoan trụi lá mùa đông và nhớ tới ngày nào!
Lệ
Uyên ơi! Ngày nào, năm nào đây thầy c̣n cơng con trên vai. Con nhong nhong ngồi trên đôi
vai thầy, hai chân thơng xuống. Cha con ḿnh đi
dạo mát buổi chiều, qua chỗ này đây… Mảnh
trăng rằm hôm ấy hiện ra sau rặng cây xoan này,
tṛn to và sáng đến nỗi khi
thầy giơ tay chỉ cho con xem Ông Trăng ḱa, Ông Trăng đang đậu trên
cành xoan, th́ bé Uyên cứ đ̣i thầy, thầy ơi, cho
con Mặt Trăng! Đ̣i cho bằng được
Mặt Trăng, dẫy nẫy lên, hai chân đạp
đạp vào ngực thầy! Về tới nhà rồi mà
vẫn c̣n đ̣i, c̣n khóc, chướng ách là thế…
đến nỗi bà nội phải kêu lên: Anh Vỹ ơi! Anh nuông chiều con quá đấy,
rồi anh làm hư con mất thôi! Phải nghiêm khắc
với con…
Ừ,
thế đấy… Hoá ra một đời Mai Duy Vỹ cho
tiền, cho gạo, cho thuốc men, cho cả bàn tay mổ
xẻ, hiến cả xương máu… Cho không thiên hạ hết
mọi thứ! Vậy mà rồi, có cái Mặt Trăng kia
vẫn không làm sao lấy
cho con gái ḿnh được. Đời vô lư, bất công là
thế đấy!
Chuyện
tự nhiên, dễ hiểu thế mà sao Vỹ không thấy
được! Vỹ không
biết thương cho chính bản thân hắn, vợ con
hắn, th́ bây giờ đến
lúc cơ nhỡ này đây, c̣n ai vào đó mà cứu hắn
được nữa! Hắn phải tội chết là…
đáng đời!
“Không có
cái ǵ lạ dưới ánh sáng mặt trời!” Thầy
chợt nhớ tới câu nói không biết ở đâu,
của ai mà ông bác sĩ người Pháp ở nhà
thương Thanh Hoá vẫn hay nhắc tới những
lần gặp gỡ, mỗi khi bắt tay vào việc.
Và bây giờ ḱa, mặt trời đang
mờ mờ rọi ánh qua đám mây
ngầu đục trên đầu ḿnh kia cũng nhắc
lại cho ḿnh biết cái Chân lư đó. Phải rồi,
tất cả đều đảo điên, giả trá và
lừa dối hết, chỉ c̣n lại đôi mắt
của con tôi, đôi mắt của Lệ Uyên đang nh́n cha nó, đôi mắt ấy là
thật. Thầy đang đếm từng phút, từng
giây cuộc sống để tính xem ḿnh c̣n được
sống với đôi mắt con hiện ra
được bao lâu? Ôi! Con gái thương của thầy
mẹ! Mai sau lớn lên xin con
đừng oán trách cha!
-
Đặt nó xuống đây thôi!
Người
khiêng đằng trước bỗng thốt lên.
-
Tôi cũng găy cả xương bả vai ra.
Người
khiêng đằng sau phụ họa theo. Thầy không
biết hai người
này là ai, ở đâu trong xă này. Vừa nói xong cả hai
đă quẳng vứt “thằng Vỹ” xuống bên
đường. Họ làm nhanh đến nỗi thầy tưởng cột
xương sống ḿnh gẫy đôi một cái rụp.
Y tá Toành lên giọng cha
bố:
- Ló
chỉ c̣n xương với da, lặng ǵ mà lặng
đến lỗi phải bỏ ló
nại đây hử?
Hai
người vặc lại:
- Nặng
chứ sao không nặng? Sao đồng chí không ghé vai vào mà lại bắt bọn này khiêng?
- Từ
sáng tới giờ bầy choa cũng chỉ
được hớp cháo vào bụng…
Y
tá Toành vênh váo:
-
Tao ấy à? Đời lào tao khiêng! Cả một
đời tao hầu hạ ló, ló áp bức đè lén tao
chưa đủ sao hử?
Ông
Đội cất giọng Nghệ An phân xử:
-
Thôi mà, các đồng chí! Gắng thêm một đoạn
nữa, đến lối rẽ vào đấu trường ta sẽ dừng
lại, bắt nó đứng dậy, đưa dẫn nó vào. Các đồng chí có phải khiêng
nó vào tận trường đấu đâu mà sợ! Thôi đừng căi nhau
nữa! Gắng lên! Nào…
Hai
người dân quân lại đặt đ̣n ống lên vai.
Nhất Đội nh́ Trời!
Đội đă nói là họ phải nghe thôi.
Ông
Đội lư giải thêm:
-
Đến đó rồi, dù hắn có nằm liệt đi
nữa, các đồng chí cũng dựng cổ dậy, kéo
lết nó vô… để cho đồng bào, đồng chí
tận mắt nhận dạng vạch mặt chỉ tên
hắn… có như thế mới cổ vũ
được tinh thần, nâng
cao được sức mạnh đấu tranh!
Quả
nhiên, Đội khiến Trời xui thế nào mà họ
khiêng vác thầy tới cái chỗ rẽ vào trường
đấu rồi đặt xuống một cách nhẹ
nhàng hơn, không đến nỗi dữ dằn như
quăng tảng đá, ném con chó lúc năy. Tháo dây trói ra khỏi
cây luồng, đ̣n khiêng, rồi để “thằng
Vỹ” nằm trên băi cỏ một lúc, chính họ cũng
ngạc nhiên thấy thầy chẳng những chưa liệt
bại, chết ngắc mà c̣n cụ cựa rồi mở
mắt ra nh́n. Thầy bắt đầu cảm nhận,
hiểu ra, chính cái không khí tự nhiên ngoài trời đă làm
cho ḿnh tươi tỉnh, khoẻ khoắn cho dù bị trói cột khiêng đi như con
lợn, con chó.
Ôi! Cái
buồng giam khủng khiếp! Cái nhà tù kỳ quái rùng rợn đă giết dần giết
ṃn ḿnh cả mấy tháng nay!
Biển
động. Ồ biển động. Rơ ràng thầy
đang nghe tiếng sóng ầm ́,
theo gió ŕ rào ngoài biển từ Ḥn Nẹ lùa vào đồng
cói. Biển động. Gió thổi. Hơi thở của
Đất Mẹ Nga Sơn lay động những cành cây ngọn cỏ, đang mơn
man hai bên má thầy!
Nhưng
có một cái biển khác, biển người trên
đấu trường đang ầm ào gào thét bên tai
thầy, không thể lầm lẫn vào đâu được.
-
Đả đảo Mai Duy Vỹ, tên địa chủ
cường hào áp bức bóc lột nông dân, thằng
Việt gian phản động bán nước!
-
Đả đảo!
-
Đả đảo!
Cái âm
tiếng “đảo” kéo dài ra nghe ảo ảo, ào ào,
rạo rạo như gươm đao cọ xát.
-
Có khổ nói khổ nông dân vùng lên!
-
Vùng lên!
-
Vùng lên!
-
Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!
-
Muôn năm!
-
Hồ Chủ tịch muôn năm!
-
Muôn năm!
Lặng
đi một lúc lại ầm ầm vang dội:
-
Đại nguyên soái Xiết-Ta-Liên muôn năm!
-
Mao Chủ tịch vĩ đại muôn năm!
-
Muôn năm! Muôn năm!
-
Hoan hô Người Anh Cả Trường Chinh!
-
Hoan hô đồng chí Hồ Viết Thắng!
-
Hoan hô! Hoan hô!
Rồi
ào ào tiếng kêu la lẫn tiếng gào thét hổ lốn,
lẫn lộn:
- Hoan hô
các đồng chí Cố vấn Trung Quốc sang giúp ta đánh
bại kẻ thù giai cấp, đấu gục bọn
địa chủ ngoan cố phản động!
-
Hoan hô! Hoan hô!
- Cải
cách Ruộng đất long trời lở đất
thắng lợi và thành công muôn
năm!
-
Muôn năm! Muôn năm!
Tiếng
vỗ tay đồng loạt nhịp nhàng hoà theo tiếng
hát của thiếu nhi lẫn thanh niên, xoay đi vần lại:
Mí đồ đồ
đồ phá mí rê
Rế đô x́ đô rế
xồn xồn
Đồ mí! Rề phá!
Mí rê đô xồn đô đô
đô…
Lại
tiếp theo bài hát khác, có tiếng trống đệm nghe
như tiếng súng, đứng
tim dựng óc người ta lên:
Chúng ta cùng nói v́ chúng ta căm
thù
Cùng tố rằng địa
chủ giết người
Loài rắn độc thâm
hiểm nhất đời
Nhớ lấy từng lời
bần cố nông ơi!
Chúng ta thề đánh vào
đầu đế quốc!
Nó thông đồng với
địa chủ thu tô.
Cùng tiến lên xây đời
Tự do...!
Rồi biển người lại cùng
tấu lên, không ra hát cũng chẳng ra nói:
-
Liên Xô ngày nay là Trung Quốc ngày mai!
-
Trung Quốc hôm nay là Việt Nam ngày mai!
-
Ngày mai! Ngày mai!
-
Đời đời nhớ ơn Đảng ta vĩ
đại!
-
Đời đời nhớ ơn Bác Hồ!…
-
Đời đời! Đời đời!
-
Nhớ! Nhớ!
-
Ời ời!
-
Ớ ớ!
Long
trời lở đất một lúc. Biển người
Quân Chủ lực Nông dân lại im lặng. Im lặng
lần này lạ lùng và khó hiểu. Cái bẫy đang ŕnh
chờ con thú mồi… Nhưng bẫy hay không bẫy th́ c̣n
để làm ǵ nữa, Vỹ ơi! Đời anh cũng
đă sập xuống rồi!
Tùng!
Tùng! Tùng! Tùng!
Một
hồi trống vang lên nghe như ṇng súng bắn cách quăng rồi nhanh dần. Một
hồi trống nữa tiếp liền. Tiếng vọng
từ Âm phủ về,
từ Địa ngục lên. Thầy giật ḿnh. Cả
lũ cũng mất b́nh tĩnh.
Ông
Đội trưởng nói:
-
Các đồng chí dẫn Mai Duy Vỹ vào!
Y
tá Toành đứng gần bên, đế theo:
-
Thằng Vỹ đứng nên! Anh em ta dẫn ló đi!
Hai anh dân
quân cúi xuống, tḥ tay qua nách, xốc thầy ngồi dậy.
Họ định lôi
đi, kéo lê cái xác chết Mai Duy Vỹ vào trong băi bắn như thế này hay sao? Một ư
nghĩ thoáng qua. Tia chớp loé trong đầu. Cụ
Cử Mai Duy Hiển, thân phụ ông Cử Mai Duy Hoà, người mà Mai Duy Vỹ gọi
bằng ông nội, Mai Lệ Uyên gọi bằng cố
nội… hiện ra? Cổ đeo gông, tay khoá, chân xiềng
xích… Cố đang lê bước giữa hai hàng lính
bảo hộ. Vừa là bạn, vừa là đồng chí của Đinh Công Tráng, cụ Cử
họ Mai bị Pháp giết trong khởi nghĩa Ba
Đ́nh. Ḍng họ Mai chúng ta dẫu thế nào, cũng không
chịu mang khí huyết nô lệ
trong người…
Thầy
khẽ gạt tay hai người dân quân:
- Xin các ông cho tôi…
Họ ngạc nhiên,
dừng lại.
- Cho tôi
được đứng lên, tự đi…
Thầy từ từ
đứng lên, loạng choạng. Đất dưới
chân như sụt lở…
Y tá Toành lải nhải:
- Ló
giả vờ đấy. Ló đi được. Cái
đồ địa chủ bóc nột, phản
động, bán lước hại ḷi, đụng vào ló nàm
chi cho bẩn nhớp tay chân…
Thầy
quay sang nh́n thẳng vào mặt hắn. Con rắn
độc ngóc đầu trân
trân nh́n lại rồi không hiểu sao cụp mặt
xuống.
Ông
Đội trưởng sốt ruột, nói như gắt:
-
Đồng chí Toành! Đủ rồi, thôi đừng nói
nữa! Khổ quá! Dẫn nó đi ngay!
Thầy
loạng choạng bước. Đă xuưt ngă chúi xuống,
may có hai anh dân quân đưa tay
ra đỡ…
-
Cảm ơn…
Thầy
nói lắp. Rét run và xúc động. Cảm
ơn… Hai tiếng “merci”… cảm
ơn đă phát ra thành thói quen suốt một quăng
đời sống và làm
việc ở nhà thương Thanh Hoá, không hiểu bây
giờ là lần thứ mấy, có lẽ là lần cuối
cùng!
Cảm ơn.
Thầy gắng sức đặt từng bước chân…
Cảm ơn Đất Mẹ Nga
Sơn đă cho con khí huyết, ḍng sống họ Mai,
từ khi người con đầu tiên của ḍng họ -
Mai An Tiêm - bị vua Hùng Vương thứ 4 phạt
tội đày ra đảo xa ngoài biển này. Cảm ơn
Đất Mẹ Nga Sơn lần cuối cùng lại cho
con vùi xác vào trong ḷng Mẹ…
Cảm ơn!
Thầy đi. Nhích
chân từng bước. Từng bước của Con
Người.
- Đả đảo
thằng Vỹ địa chủ bóc nột, cường
hào áp bức, cướp thóc núa,
nhai xương uống máu bà con lông dân!
- Đả đảo!
Đả đảo!
- Đă đảo thằng
Vỹ, tên Việt gian bán lước, hại ḷi, con chó săn đắc nực của
đế quốc phong kiến!
- Đả đảo!
Đả đảo!
Y tá Toành bước vội lên
trước, đầu ngoái sang trái rồi quay sang
phải, tay vung lên hô la. Hắn ta hét đến vỡ
họng, giọng khản đặc. Cái giọng thuốc
lào Thái B́nh (hay Nam Định?) của Toành dù có sang tới Bên Ấy thầy cũng không
quên.
Trời rét. Rét đến
nỗi hai bàn chân nứt nẻ, ống chân khô cứng co
rút, lại thêm hai tay bị trói trật cánh khuỷu ra sau
lưng, mấy lần dúi dụi ngă xuống mặt
đất. Vậy mà, Lệ Uyên
ơi, thầy cảm nhận cái giá rét của Đất
Mẹ Nga Sơn một cách dễ chịu, gần
như sung sướng. Cảm tạ mùa đông Xứ Bắc! Không có cái lạnh của
Đất Mẹ làm sao con được hưởng
hơi ấm ngọn lửa thiêng của hạnh phúc sum
vầy ḍng họ, tổ tiên, gia đ́nh… nhất là vào
những ngày giáp Tết, chuẩn bị đón xuân như
hôm nay: 27 tháng Chạp - Ất Mùi - 1955!
Ôi! Cái thời đại
loạn lạc, đảo điên, băng hoại, vô
đạo, vô luân!
Con người muốn
tồn tại, muốn sống, dẫu đă giả ngu,
hoá hèn, trở thành con vật rồi vẫn cứ bị
giết chết! Phải làm ma, làm quỷ kia th́ không chỉ
sống thôi đâu, mà c̣n được hiển vinh cao sang
nữa! Mai Duy Vỹ ơi! Anh đă… ăn hết Quả
Lừa chưa?
Gió thổi lao xao
chen sóng biển ŕ rào… Âm thanh hoà trộn mà rành rọt
đáng yêu sao từ xa khơi vào, lượn ṿng dăy núi Tam Lênh, qua những rặng vẹt,
đồng cói mênh mông u buồn; lại hoà điệu cùng lời ca, tiếng vọng
của ai xưa… lênh đênh qua cửa Thần Phù,
khéo tu th́ nổi, vụng tu th́ ch́m… vừa đến bên tai
thầy u u ư ư… một
hồi dài. Làn sóng âm thanh đó tự nhiên lại tách
bạch, rơ rệt, rành rọt:
“Ngu! Ngu! C̣n ngu! C̣n
ngu lâu! Chưa hết đâu!”
Rồi loé chói lên
trong đầu nghe như tiếng sét đánh:
“Ai bảo khôn cũng chết,
dại cũng chết, biết… th́ tưởng rằng
khỏi chết hay sao? X́! Thôi đi! Cái điều cũ
kỹ mấy ngàn năm nghe đi nghe lại, cứ
tưởng là mới mẻ hay ho lắm! Biết rồi cũng chết! Chỉ có chết
rồi mới hết… Hết mà vẫn …c̣n.”
Vâng! Con biết con ngu, con ngu
mà! Con có nói ǵ nữa đâu!
Con ngu
vậy là c̣n ít, Vỹ ơi, bởi con ngây thơ và
thật thà. Thánh thần, vĩ nhân kia cái bọn ranh ma
độc ác đó mới thật là ngu, ngu hết chỗ nói…
Và
Cái Chết! Cái Chết đă hiện ra trước mắt
con ḱa!
Cái
Chết…
Vẫn là cái băi tha ma
ấy… Ngày xưa, có lần thầy theo anh Nuôi, hai anh em cùng cỡi trâu ra đây cho trâu
ăn cỏ, ngồi thả diều,
đánh khăng…
Ngày ấy, cỏ mọc
xanh lút mồm trâu ḅ, bây giờ hoang sơ cằn cỗi. Nơi đây, bây giờ là
chỗ tập trung người để mít tinh, biểu t́nh của làng xă. Bước chân
người giẫm đạp, tiếng người
vỗ tay, thét loa, ḥ la… từ ngày Khởi nghĩa
tới nay, làm cho cỏ cũng sợ hăi mọc ít đi,
không lớn nổi, trâu ḅ cũng ít tới… Một phần
rẻo đất bên kia nay
đă lô nhô hiu hắt những nấm mồ.
Vẫn là
cái “khán đài” dựng lên trên mô đất
cao gồm mấy bộ bàn dài bằng gỗ kê sát nhau.
Ghế ngồi là mấy cây tre giằng, cây luồng ghép, đặt buộc lên những
cọc gỗ…
Cũng
như hai lần đấu trước, ngước nh́n
lên thầy đă thấy những khuôn mặt cũ, ông
Đội trưởng Đội Cải cách Ruộng
đất ngồi trên đó, c̣n
một bà Đội nữa đang đứng lẫn trong
đám quần chúng, Quân Chủ lực Nông dân. Tám chín
“cốt cán” Đội đă “xâu chuỗi bắt rễ”
tách ra đứng một chỗ phía dưới “khán đài”, mấy người dễ dàng nhận ra:
vợ chồng C̣ Toe, Hĩm Xoa, thím Đông, y tá Toành… C̣n mấy người
nữa trông quen quen nhưng không nhớ tên, h́nh như
Đội mới xâu chỗi bắt rễ thêm?… Không thấy mặt chú Đông!
Y tá Toành
sau một lúc lăng xăng đi lui đi tới
dưới “khán đài”, cũng đă thấy leo lên
ngồi trên hàng ghế lănh đạo, Chủ tịch
đoàn…
Trên
đầu những người này là ba bức ảnh treo
khung gỗ: chân dung Bác Hồ, Bác Mao và đồng chí
Malencốp. Ngọn cờ đỏ sao vàng buông rũ, khẽ dật dờ trong gió. Hai bên,
hai băng khẩu hiệu bằng cót, quét vôi
trắng, nền chữ đen đỏ: Đảng Lao
động Việt Nam muôn năm! Hồ Chủ tịch
muôn năm! Toàn dân đoàn kết,
quyết tâm đấu gục tên địa chủ
phản động bán nước Mai Duy Vỹ!…
Vẫn là mấy câu khẩu hiệu của hai lần
đấu trước, đem ra treo dựng lại,
nhưng hôm nay có một cái bảng cót trông không lớn
lắm, chữ viết nguệch ngoạc, lại
được cắm ngay dưới chân “khán đài” trước mặt
Quần chúng Nông dân Chủ lực: “Lợ máu phải
đền lợ máu!”
Thầy
chưa kịp nghĩ ǵ về mấy chữ “máu”
này th́ bàn chân đă dừng
lại trước cái hố h́nh chữ nhật đào sâu
khoảng hai gang tay…
Hai
lần đấu trước thầy đă phải
quỳ trong cái hố này, cúi đầu
xuống, cấm không được ngẩng mặt lên,
để cho các đồng chí cốt cán bần
cố nông được Đội xâu chuỗi bắt
rễ đứng ngay trên miệng
hố gào thét, xỉa xói, tố hết nỗi khổ
đau của họ, tội ác trời không dung
đất không tha của thầy… Họ đứng trên
cao, trước miệng hố
mới nổi bật lên được uy thế bần
cố, xưa là nô lệ nay là Ông Bà Chủ; c̣n ḿnh
quỳ ở dưới hố bây giờ không
được là cái con chó, con sâu bọ…
“Vỹ
ơi! Anh đang nh́n cái ǵ đấy?”
Lạ
thật. Có tiếng ai đang thủ thỉ bên tai ḿnh?
Vẫn là cái hố hôm trước, có ǵ lạ đâu.
Lại nghe tiếng ai kêu đến lạc cả giọng:
“Nh́n
về bên trái! Mắt với mũi! Phía tả! Cánh tả!”
Thầy
chợt nhận ra cây cột người ta mới đào
đất chôn từ sáng nay. Một đoạn luồng
ngâm dài đă cắm sâu dưới đất để
họ trói đứng ḿnh vào
cột rồi vẫn c̣n dôi ra một khúc, nhô lên trên
đầu chừng 20 phân.
“Lùi
lại sau lưng dăm bước chân thôi, cái huyệt
người ta đào sẵn,
đất cát ùn chất lên cả đống ḱa! Anh không
thấy à? Lúc nào anh cũng thật thà, ngây thơ
đến dại dột! Cái huyệt ấy, ngôi nhà Vĩnh cữu, Cách mạng
ruộng đất chia phần cho anh… Đă thấy
chưa?”
Thầy
đang định ngoái cổ lại nh́n th́ bóng h́nh ai kia trông
quen
quá đă hiện ra ngay trước mặt, một nụ
cười nhân hậu buồn buồn…
“Đồng chí Mai Duy Vỹ! Anh Vỹ… Tôi,
Trần Vĩnh Quyền, chủ tịch Uỷ ban Kháng
chiến Hành chính xă Nga Phú… bạn học cũ, bệnh nhân
của anh đây. Tôi đi trước anh… Họ vừa
mới tử h́nh tôi ngay dưới chân núi An Tiêm. Sáu viên
đạn súng trường vào người. Một viên
đạn súng lục vào thái dương bên trái. Một
đầu đạn c̣n mắc
ở trong ngực, chếch lên phía bả vai trái… Chào
Vĩnh biệt!”
“Vĩnh
biệt!” Thầy vừa định kêu lên th́ bác Quyền,
Trần Vĩnh Quyền chứ
không thể là ai khác lại hiện ra…
“Anh
Vỹ! Xin báo cho bạn của tôi biết một tin
mới. Có thể đây là thông điệp của Yavê Thiên
Chúa? Trên đường tôi trở về Nước Chúa th́ ngược đường Bên
Ấy có một người chạy bộ từ thị xă
Thanh Hoá về tới Nga Sơn mang theo mệnh lệnh
của Đoàn Cải cách Ruộng Đất, coi như
Bộ Tổng Chỉ huy hoặc Toà án Tối cao, tạm hiểu như thế nhé…
Cái lệnh truyền
mồm ấy là “Huỷ bỏ bản án tử h́nh có
chữ kư của bà
Đội Lê Thị Choét! Tha chết cho Trần Vĩnh
Quyền!”
Cảm
ơn người anh em đồng chí tôi không
được biết tên đă lập một kỷ lục chạy
bộ ma-ra-tông mới cho nước nhà trên đoạn
đường dài 40 ki-lô-mét.. khi bàn chân đất không dày
dép, toạc da, toé máu vừa tới chân núi An Tiêm, truyền
được khẩu lệnh mồm
th́ anh này đă gục xuống bất tỉnh!
“Huỷ bỏ
án tử h́nh có chữ kư của bà Đội Lê Thị
Choét! Tha chết cho Trần
Vĩnh Quyền!”
Trần
Vĩnh Quyền đây! Tôi đă nghe rồi! Lạy tạ
Đất Mẹ Nga Sơn! Vĩnh biệt bà con Nga An! Tôi đang trên
đường về Nước Chúa mang theo 40 tuổi
đời, bốn ngàn năm tuổi nước… Ḿnh
đi trước nhé, Mai Duy
Vỹ ơi! Vĩnh biệt!”
“Vĩnh
biệt!” Môi thầy mấp máy, lặp lại. Thầy
chỉ muốn kêu to lên… nhưng bàn tay ai từ phía sau
đă chụp lấy vai phải, lôi lại, ấn xuống.
- Vỹ!
Đứng lại!
Thầy
dừng lại.
-
Quỳ xuống!
Chưa
kịp quỳ xuống, hai người hai bên đă kéo lôi,
đẩy thầy xuống hố cạn trước
mặt. Sợi dây thừng trói cột hai tay làm thầy loạng choạng ngă chúi.
Đầu đập vào cạnh hố, môi răng dính đầy
đất cát, mông đít chổng lên… Họ phải tḥ tay
xuống vực dậy,
để thằng Vỹ có thể co duỗi quỳ
dưới hố.
Trận
mưa đêm qua làm lớp đất mùn bên trên c̣n
ướt dính nhoe nhoét.
Một con nhái bén nhảy lên đậu vào vành tai thầy,
vừa rớt xuống dưới bụng lại ḅ lên
đầu gối… Ḱa, nó nh́n thầy! Ôi! Con vật đáng
yêu! Chẳng cứ ǵ mày mới có vẻ đẹp tự
nhiên, hiền hoà, mà rồi
đây, cả đến ḍi bọ, mối, đục khoét
thân thể ta… cũng
chẳng có ǵ đáng gọi là xấu! Chỉ có con
người! Con người! Giống loài hung dữ
độc ác nhất trên Trái Đất, thứ khổng
trùng dịch bệnh khủng
khiếp mà Louis Pasteur, Robert Koch, Alexandre Yersin cũng không
ngờ tới, h́nh dung nổi!
Tiếng
loa ọ ẹ cất lên.
Ông
Đội nói tiếng Nghệ An thông báo cho bà con nông dân
buổi đấu tố lần thứ 3, lần cuối
cùng hôm nay bắt đầu. Để đảm bảo
thắng lợi to lớn của cuộc Cách mạng long
trời lở đất, Ông
Đội đề nghị tất cả mọi người
có mặt hôm nay, Quân Chủ lực Cách mạng
phải ra sức phát huy cho kỳ hết ḷng căm thù giai cấp, tinh thần đấu tranh
kiên cường bất khuất để đấu
gục tên địa chủ ngoan cố nham hiểm,
thằng Việt gian phản động, bán nước Mai
Duy Vỹ!
“Thành tích
cách mạng hôm nay…” - ông Đội la to - “chúng ta sẽ dâng
lên Bác, Trung ương Đảng và Chính phủ, làm tấm
gương sáng cho cuộc
đấu tố điển h́nh không chỉ toàn huyện
Nga Sơn mà toàn tỉnh Thanh Hoá chúng ta!”
Tiếng
trống đánh điểm nhịp cho tiếng hoan hô
nổi lên nghe như tiếng súng. Trong rừng cánh tay vung
lên có chừng dăm bảy
khẩu súng trường, mấy chục cây gậy, c̣n
lại là thuổng, cuốc, mă tấu, dao… Cũng
như hai lần trước, thầy dễ dàng nhận
thấy có những cánh tay giơ lên nửa chừng cùng
những tiếng hô rụt rè, phải phép, những ánh
mắt sợ sệt… Ai đó? Ai mà không sợ ông Đội hơn sợ Trời,
sợ người… sợ cả chính ḿnh?
-
Vỹ!
Thầy
ngước đầu nh́n, ngạc nhiên hơn là… sợ
hăi. Chú Đông, Mai Duy Đông nhà ta đang đứng
trước mặt, giơ ngón tay trỏ
xỉa vào mặt thầy.
-
Cúi đầu xuống! Mi có biết tao là ai không? Thầy
cúi đầu, nói nhỏ:
-
Dạ, tôi không biết.
-
Láo! Biết chứ răng lại không biết! Thằng
này…
-
Dạ. V́ tôi phải cúi đầu xuống, có
được ngẩng đầu lên đâu mà bảo tôi
nh́n ra ông là ai?
Thầy
ngẩng đầu lên nh́n thẳng vào mặt chú Đông.
Có
tiếng ồn ào ở phía dưới. Trong đám đông
h́nh như có tiếng ai
cười. Vài tiếng la, hô “đả đảo”.
- Phải
bắt thằng Vỹ ló xưng nà con, thưa với bà con
lông dân nà ông bà lông dân… không
được phép gọi ḿnh nà tôi!
Y
tá Toành đứng ra để nhắc nhở Lê Trạch
Đông, c̣n là để lấy oai.
Được
tiếp sức, Đông chồm lên hét to:
-
Nói đi! Tao là ai, mi có biết không?
- Dạ,
thưa ông - thầy điềm đạm từ tốn -
ông là Mai Duy Đông, em của tôi…
- Láo! Tao
không có anh em ǵ với mi! Tao là… là... Lê Trạch Đông, là
đứa ở của nhà mi. Cha mẹ mi, hai đứa
bóc lột tao, đè nén áp bức tao suốt ba mươi
năm, bắt tao ăn đói nhịn khát, cực khổ c̣n hơn con chó… để c̣n
hầu hạ vợ chồng mi…
- Dạ
thưa ông Ma… à quên (xuưt nữa th́ thầy gọi “Mao” cũng bởi ḍng họ nhà ta là Mai, tự
nhiên ḿnh lú lẫn)… ông Trạch Đông, ông không muốn nhận ḿnh là con cái nhà họ
Mai nữa, cái đó là
quyền của ông. C̣n đối với tôi th́
trước sau ông vẫn là Mai Duy Đông, cha mẹ
tôi nuôi nấng ông từ lúc ông mới sinh ra, t́m thấy ông nằm trong cái tă váy rách
ở bụi xương rồng trước cổng nhà
vào một sáng mùa đông… Tôi không muốn nhắc lại làm
ǵ bởi v́ ở Nga Sơn này nhiều người
c̣n nhớ và… chắc ông cũng biết!
- Mi nói
láo! Mả bố mả mẹ mi, tao nói cho mi biết, tao có cha, có mẹ hẳn hoi. Tao con nhà
cố nông, v́ nghèo khổ quá, cha mẹ tao bắt tao
đi ở cho nhà mi để gán nợ… ba đời! Cái
ḍng họ Mai bẩn thỉu chó má của mi tao thèm vào! Tao là
con của nông dân, sinh ra trong thành phần bần cố nông
nghèo khổ. Đội Cải cách đă cứu sống
tao. Đảng cho tao làm người. Mi hiểu chưa?
Vỹ!
-
Dạ, thưa ông Đông, tôi hiểu…
- Đă
nói rồi! Không được xưng với tao (chú
Đông vỗ ngực) là tôi, mi phải xưng mi là con chó,
con lợn…
-
Dạ, con chó con lợn này xin…
Quả
thật, thầy cũng thấy lúng túng cứ phải
xưng hô theo kiểu con chó con lợn này… May mà con chó nó
chỉ biết sủa, con lợn
nó chỉ biết ụt ịt chứ không th́… Ôi, khốn
khổ cho cái kiếp con người ta!
Thầy
im lặng. Chú Đông dừng lại, thở hổn
hển. Đột nhiên, chú hét rất to như có ai bày cách
cho phải làm như thế.
-
Vỹ! Mi có biết không? Cách đây mấy năm rồi…
vào cái Tết năm…
năm… (chú chắc lưỡi, ngọng nghịu) nhà mi
tụ tập toàn bọn Quốc Dân Đảng… Mi giơ
tay xin thề trung thành với chúng nó
đến hơi thở cúi c̣ng, thề diệt hết…
kẻ thù Cách mạng và bán nước cho Tây, rồi… th́…
là…
Thầy
ngạc nhiên, hoảng sợ. Hai lần đấu
trước cái chuyện “Quốc Dân Đảng” này không
thấy có? Chắc là Đội trưởng hay Toành đă bày tṛ cho Đông? Cái
đầu chú ấy th́ biết ǵ tới chuyện chính
trị, Việt Quốc, Việt Cách… Đến
nước này th́ Mai Duy Vỹ có một cái đầu
chứ có hai cái đầu người ta cũng chặt
cho bằng được!
Thừa
lúc chú Đông ngẩn người để nhớ ra
những điều đă học thuộc ḷng mấy hôm
nay, bây giờ lú lẫn quên mất, thầy đột nhiên
dứng dậy trong hố. Như có bàn tay vô h́nh nào lôi
thầy dậy, vươn ḿnh
đứng thẳng; thầy định giơ cánh tay
phải về phía lá cờ đỏ sao vàng và chân dung Bác
Hồ ở trước mặt, trên đầu, nhưng
khốn nỗi hai tay bị trói chặt, toàn thân run rẩy
loạng choạng…
- Thưa bà con nông dân!
Thưa các đồng chí! Tôi, Mai Duy Vỹ, đảng viên Đảng Lao
động Việt Nam, tiền thân là Đảng Cộng sản Đông Dương… Ông Lê
Trạch Đông đă dựng chuyện, bịa
đặt, xuyên tạc… Tôi là một người
Cộng sản. Đảng Cộng sản kết nạp
tôi ở ngoài Mặt trận năm 1948 chứ không phải
tại nhà tôi. Các đồng chí
của tôi, một số là thầy thuốc, một số
người ở trên Tỉnh uỷ, Uỷ ban có lúc
đến thăm tôi, gặp gỡ tại nhà tôi.
Chuyện ấy là có thật nhưng họ là
những đảng viên Cộng sản chứ không
phải Quốc Dân đảng. Quốc Dân đảng chúng
nó theo Tưởng Giới Thạch,
Nguyễn Hải Thần về bên Tàu từ lâu. Mà bên Tàu bây
giờ có thằng nào là Quốc Dân đảng th́ Bác
Mao và Đảng Cộng sản Trung
Quốc cũng đă bắt nhốt hoặc làm thịt
hết rồi!
Như
một đứa con bị đ̣n oan, cậu học tṛ
bị xử phạt vô lư, thầy ngước nh́n ảnh Bác Hồ và ngọn
cờ đỏ sao vàng, hai mắt trào lệ… Thầy uất ức, dằn từng
tiếng, rơ từng lời:
“Bác
Hồ là lănh tụ tối cao của toàn dân Việt Nam, là người thầy tôn kính nhất
của tôi. Tôi làm theo lời dạy của Bác, đi theo
con đường của Đảng. Tôi nguyện trung
thành với Đảng, hy sinh cho Cách mạng đến
giọt máu cuối cùng. Có… Có…! Có lần tôi đă nói như vậy…
Hồ
Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn
năm!
Đảng
Lao động Việt Nam muôn năm!”
Thầy
ngẩng cao đầu, lấy hết hơi sức la to.
Rồi ứa trào nước
mắt, nghẹn nấc.
Y
tá Toành đang ngồi trên “khán đài”
đứng dậy, giơ ngón tay xỉa xuống dưới
đấu trường.
-
Thằng Vỹ ló lói náo đấy bà con ạ. Ló nà tên
Quốc Dân đảng chính cống nhưng nại
đội nốt chui vào, trá h́nh nàm đảng viên
Đảng Nao động để phá hoại
Đảng ta! Cộng sản đâu đến phần ló!
Ló nà tên Việt gian phản động bán lước! Các
đồng chí! Bịt mồm
thằng Vỹ nại! Không cho ló lói lữa! Thằng
Vỹ phản bội nại dân tộc ḷi giống
Việt Lam! Ló phải chết! Đả đảo
thằng Vỹ!
Vài
tiếng hô “đả đảo” rời rạc tiếp
theo.
Cả
đấu trường lặng đi. Ngay cả ông
Đội trưởng đang méo mồm trợn mắt
rít điếu thuốc lào cũng dừng lại bối
rối.
-
Bắt ló câm mồm ngay! Không cho ló lói lữa!
Toành
rít lên.
Thầy
đứng thẳng như cây cột chôn trước
mặt. Cây cột như cũng sửng sốt nh́n
thầy, ngạc nhiên sao một con người lại có
thể đứng yên được trước sự
xúc phạm, vu oan giá họa đến thế.
Ông
Đội quát tháo ra lệnh cho du kích, dân quân bắt
thầy phải quỳ xuống.
Tiếp
theo, đến lượt Hĩm Xoa, vợ chồng C̣ Toe
bước lên đấu
tố.
Vẫn
những chuyện cũ lặp lại hai lần
đấu trước: cướp ruộng, tiêm thuốc
độc cho vợ Xoa chết, nhét lưỡi cưa vào
ruột thằng cu con C̣ Toe. Lưỡi cưa đó rành
rành là của y tá Toành mớm cho C̣ Toe. Khi nói ra chi tiết
này, C̣ Toe hơi lúng túng quay sang nh́n Toành lúc đó đă từ
“khán đài” xuống chầu chực sẵn bên…
Một
điều lạ, có thể người ta không tin
được, thầy không có
ghét bỏ căm thù ǵ những người nghèo khổ
tăm tối đó. Họ là người làng nước, bà con xóm giềng thân
thuộc của ḿnh bao đời nay bây giờ
trở thành nạn nhân, con tốt trên bàn cờ đen
tối và độc ác của Đội Cải cách.
Giả sử, nếu Trời thương Đội cho
thầy thoát khỏi án tử
h́nh, Mai Duy Vỹ lại sẵn sàng cầm túi thuốc
nửa đêm lên đường, khi họ lâm bệnh
đến nhà ḿnh cầu cứu.
Ôi!
Chữ Tâm của Mai Duy Vỹ, Ḷng Nhân của ḍng họ Mai
xứ Nga Sơn - Thanh Hoá!
Dẫu
rằng không theo Phật Giáo và Công Giáo, đôi lúc thầy
vẫn nghĩ đă là con người th́ không ai tránh
khỏi tội lỗi. Đó là lẽ tự nhiên… Ḿnh sinh
ra trong gia đ́nh sung sướng ắt phải mang nợ
với những kẻ tật nguyền, nghèo khổ. Và,
đi theo Đảng, làm đầy
tớ cho dân, san bằng cái hố giàu nghèo để
khắp thế giới này chẳng c̣n người
bị đói khổ áp bức, ai ai cũng b́nh đẳng
sung sướng… đó chính là
mơ ước của thầy…
Trong Chỉnh huấn khi viết tự
kiểm điểm, thầy cũng đă thành khẩn bộc lộ, kê khai
những sai lầm tội lỗi của ḿnh đối
với bà con nông dân nghèo khổ và thấy ḿnh trở
nên trong sạch khoẻ khoắn
như một con bệnh được chữa lành
cứu sống.
Nghe
bạn kể, ông Karl Marx nghèo túng đến nỗi không c̣n
đồng nào trong túi để trả tiền thuê nhà
trọ, cuối tháng phải trèo tường chạy
trốn chủ nhà; Bác Hồ giản dị tiết
kiệm chỉ mặc bộ quần áo nâu, đi dép cao su,
quanh năm ăn cơm muối khoai lang cà pháo… thầy rưng rưng nước mắt.
Thầy
đă kể lại những mẩu chuyện này cho cả
nhà nghe để răn đe, giáo dục mọi
người.
Con ạ,
thầy chẳng ưa ǵ lối sống tu hành của các
nhà sư và cha cố; nhưng sao ḿnh lại mang một
đức tin ngây thơ rằng h́nh
như chỉ sống trong nghèo khổ con người ta
mới có đạo đức và, mọi tội ác
trên đời này đều bắt nguồn từ
cuộc sống giàu sang, thừa
mứa?
Và
người Cộng sản xuất hiện!
Người
Cộng sản sinh ra trên Trái Đất này là để hoàn
thiện ước mơ cao đẹp nhất của con
người!
Đến
nước này rồi mà Mai Duy Vỹ cẫn c̣n nghĩ
ngợi lan man như thế
đấy, thử hỏi có dở hơi không?
Và
ḱa, Lệ Uyên ơi, Thần Chết đă đến
lạnh lùng đứng bên “khán đài” cách một quăng trước
mặt thầy. Bên tai thầy có ai nói thầm th́:
“Vỹ
ơi! Tội ác trên thế gian này lũ lụt kéo
đến từ hai phía, phía người giàu và cả phía
người nghèo. Đừng lầm tưởng rằng
chỉ có phía người giàu thôi đâu, và h́nh như… con
ơi, điều trái với mong muốn của tất
cả chúng ta là, cái phía người nghèo ấy xem ra lại nhiều và… nhiều
hơn! Ôi! Tai họa!
-
Vỹ!
Tiếng
người hét trước mặt gần đến
nỗi thầy váng cả đầu óc, chưa nhận ra được ai kia, Thần
Chết hay y tá Toành, vừa đè dí ngón tray trỏ vào trán làm ḿnh xuưt ngă ngửa.
-
Mi có biết tao nà ai không?
-
Dạ, biết…
- Lói to nên
cho bà con lông dân, quần chúng nao động Quân chủ nực Cách mạng
người ta nghe! Hử! Mi có biết tao nà ai không?
-
Dạ, thưa… Ông là ông Toành, y tá…
- Ái chà! Mi
tưởng mi nà y sĩ nà ghê gớm nắm hả? - Toành
dừng lại cười gằn - mi nà cái cục cứt,
con chó, con nợn mà thằng Pháp
ló lặn ra… Có phải bọn Tây, mấy thằng
đốc tờ Pháp, chúng ló dạy mày cưa chân,
chặt tay bộ đội, mổ bụng người ra
nhét nưỡi cưa vào ruột gan họ rồi khâu
chỉ nại rồi th́… mi c̣n pha
chế tẩm chất độc vào những viên thuốc
của Tây rồi đưa cho anh em chiến sĩ, bà
con lông dân uống để người ta năn đùng ra
chết. Có đúng như thế không?
Thầy
im lặng. Cố nhớ lại và hơi ngạc nhiên.
Thật ra ḿnh đâu có biết
ǵ nhiều về cái anh Toành này. C̣ Toe, Hĩm Xoa… bà con
trong làng th́ ḿnh biết, bởi họ cùng quê, thậm chí
cùng họ… C̣n Toành? Họ tên
hắn là ǵ, quê quán ở đâu? H́nh như có ai nói
hắn từ Thái B́nh vào Nga Sơn năm đói Ất
Dậu 45; lại có người nói hắn chạy loạn
từ Ư Yên Nam Định vào đây năm 1947?…
-
Vỹ! Mi giết tất cả anh em bộ đội, bà
con lông dân, trẻ già nớn bé nà… nà… hai trăm mạng
người có đúng không? Hử!
Thầy
ngước mắt nh́n Toành, ngạc nhiên về sự
bịa đặt tưởng tượng của con
người - động vật tàn ác nguy hiểm nhất
trên Trái Đất. Con số 200 mà Toành vừa công bố
đă được Đội Cải cách thống kê ghi
vào biên bản lần đấu thứ hai. Hôm đó,
chẳng hiểu v́ đầu óc đă điên loạn hay
bởi cái bản chất nghịch ngợm, hài hước
từ thuở c̣n là học tṛ, thầy đă xin phép
Đội được
sửa con số 200 thành 1955… Vậy mà sao hôm nay hắn
vẫn c̣n nhắc lại?
Thầy
nói nhanh để hắn không kịp ngăn lại:
- Thưa
ông Toành. Con đă nói lần trước rồi sao ông
vẫn không nhớ? Không phải chỉ 200 đâu! Con đă
giết tất cả là một ngàn
chín trăm năm mươi lăm mạng người!
Toành
ngớ người. H́nh như hắn chưa hiểu ra.
- Thưa
ông Toành. Năm nay là năm 1955. Tính từ khi con cầm xê ranh, dao mổ cho
đến nay, con đă giết tất tần tật là
một ngàn chín trăm
năm mươi lăm mạng người chứ c̣n sao
nữa? Chỉ hai trăm thôi à? Ít quá! Một lần
nữa… Con xin nhắc lại!
Đám
đông Quân Chủ lực Cách mạng ồn ào, sôi
động. Có tiếng ai
cười khẽ.
Toành
chợt hiểu, cười găm lại trong mồm:
- Mi nếu náo hả
Vỹ? Đến chết rồi mà vẫn c̣n dám đùa
cợt, chế nhạo các ông bà lông dân chúng tao.
Rồi
vụt đứng thẳng người, tay vung nắm
đấm lên hô:
-
Đả đảo thằng Vỹ náo xược, ngoan
cố, coi thường quần chúng, Quân Chủ nực Cách
mạng, chế nhạo bà con bần cố lông dân!
-
Đả đảo!
-
Đả đảo!
Biển
người đả đảo ào ào cuộn dâng lên. Toành càng hét to hơn:
- Kiên quyết đấu
gục Mai Duy Vỹ, thằng địa chủ bóc nột
gian ác, thằng thầy thuốc giết người
cưa chân, chặt tay bộ đội, uống máu lông dân, bỏ thuốc độc cho
bệnh nhân uống…
- Đả đảo!
Đả đảo!
- Có khổ nói
khổ nông dân vùng lên!
- Vùng lên! Vùng lên!
Mắt Toành
đỏ nọc như vừa bật máu. Hắn dừng
lại lấy sức, dồn hơi để hét:
- Vỹ!
- Dạ.
- Mi đă cắt dây
điện để cho quân ta không nhận được
nệnh của Bộ Tư nệnh mặt trận ở
trên đánh Móc về! Có phải không?
- Dạ.
- Vỹ! Chính mi
ở Nho Quan đă bấm đèn bim nên trời để
gọi máy bay Pháp tới bỏ bom. Đúng không?
- Dạ
- Có đúng không?
Dạ nghĩa nà nàm sao?
- Dạ!
- Vỹ! Có phải mi đă
niên nạc với Nê Hữu Từ ở Phát Diệm không?
- Dạ. Không. Thưa ông Toành.
Con đâu phải người Công Giáo.
Con theo đạo Cộng sản, làm sao quen biết
được Giám mục Lê Hữu Từ?
- Mi lói náo! Mi với
hắn là hai thằng phản động cấu kết
với nhau, niếm gót giày cho Pháp, chống phá Cách mạng!
- Dạ. Kính thưa
Đội! Kính thưa các ông bà Nông dân - Thầy nói
chậm răi - Con không có quen biết ǵ với cha Lê Hữu
Từ cả. Nhưng Bác Hồ, năm 1947, theo lời
mấy ông trên Tỉnh nói cho con biết, Bác có vào thăm
Thanh Hoá, lúc về Bác đă ghé qua Phát Diệm gặp Lê
Hữu Từ khuyên bảo ông ấy nên đoàn kết Lương Giáo chống Pháp…
Ông Đội trưởng
đặt điếu cày xuống, đập bàn,
đứng dậy, xỉa ngón tay
trỏ xuống phía thầy, thét lên:
- Vỹ! Mi toàn bịa đặt, nói láo! Bác Hồ sao
lại đến gặp Lê Hữu Từ? Nó là thằng cha
cố phản động bán nước buôn dân. Mi cả
gan dựng chuyện cho Bác Hồ, định hạ uy tín
lănh tụ tối cao của toàn dân phải không? A! Thằng
này… ghê gớm thật. Tự lột trần rành rành chân
tướng của một tên Việt gian bán nước… Đáng tội chê… ết!
Toành
chồm tới nhổ một băi nước bọt vào
mặt thầy, xỉa xói theo:
- Vỹ!
Chính mi đă cứu sống thằng Tây Giắc, thằng
Pháp cướp lước. Sau đó, một thời gian
dài mi nàm gián điệp cho ló, cho
tới Hiệp định Giơnevơ khi ló về
lước. Thưa bà con Lông dân, Quân Chủ nực… các
đồng chí ạ, thằng Vỹ với thằng
Giắc, hai đứa suốt thời gian ở
mặt trận cứ lói chuyện với nhau bằng
tiếng Tây x́ nà x́ nồ… Ló lói ǵ, chỉ chúng ló mới hiểu
được thôi. Nhưng anh em, đồng chí trong quân
đội hồi ấy, rồi người ta cũng
biết, biết hết…
Chẳng hạn, thằng Giắc giơ tay nên quay ṿng nà ra
cái ư máy bay Pháp ló nượn ṿng, c̣n thằng Vỹ
th́… cũng giơ tay nên nhưng nại đâm thọc
xuống rồi kêu đùng một cái, tức nà ra hiệu
cho phi công Tây ló lém bom chứ c̣n ǵ lữa! Có phải thế
không hở bà con, các đồng
chí?
Ông Đội trưởng hô to:
- Đả đảo
thằng Việt gian Mai Duy Vỹ liếm gót Tây, cấu
kết với Pháp, âm mưu bán
rẻ nước ta cho bọn thực dân đế
quốc!
- Đả đảo!
- Đả đảo!
- Thằng Vỹ
đáng tội chết!
- Phải tử h́nh Mai Duy
Vỹ!
-
Tử h́nh! Tử h́nh!
Mặt
trời bỗng nhiên ló ra khỏi đám mây đen. Ánh
nắng lấp loáng trên “khán đài”. Thầy nheo mắt cảm nhận đây là
tia nắng cuối cùng của Trái Đất. Vầng
mặt trời quang minh chính đại thênh thang đi ṿng trên đầu thế gian từ
khi Mai Duy Vỹ mở mắt chào đời cho
đến nay. Mặt trời đỏ lửa thần
diệu ấy bây giờ không c̣n nguyên h́nh nữa, chỉ là
một đám cháy… Đám cháy cũng sắp tắt. Quả
nhiên đám mây đen khác đùn tới, che lấp. Bóng
tối sa sầm. Một giọt mưa trên cao ấy
rơi nghiêng xuống đúng vào
giữa trán thầy.
Ông
Đội trưởng đọc to, dằn nặng
từng tiếng Nghệ An những ḍng chữ trên tờ
giấy trong ḷng hai bàn tay run run… Bản án tử h́nh Mai Duy
Vỹ đă được Đoàn Cải cách - Cấp trên
kư duyệt.
“Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà - Độc lập Tự do
Hạnh phúc”
Thầy
chỉ nghe được ngần ấy chữ. Cái
đoạn kể tội, luận tội vu vơ, lảm nhảm cứ như lời
trẻ con chơi bịt mắt bắt dê; và cả cái phán quyết giết người rùng
rợn cũng như tṛ đùa, tuồng diễn trên sân khấu: Tên địa chủ
phản động Mai Duy Vỹ phải chịu án tử
h́nh!
Thần
Chết đă tới, đứng gần cây cột chôn
trước mặt.
Lời
ai đây nghe rành rọt bên tai thầy:
“Người
ta bảo Cách mạng là ngày hội của quần chúng. Mai Duy Vỹ ơi, anh đă mải mê đi
trong đám quần chúng. Và tới bây giờ, trên sân
khấu của Ngày Hội anh cũng phải tham gia đóng
nốt vở tuồng. Khốn nạn thân anh, vai diễn
này lại đẫm máu và nước
mắt!”
Họ
dựng thầy dậy, lôi ra khỏi cái hố cạn,
đẩy kéo sang tới cây cột dựng đứng kia.
Thoạt
tiên, họ định cởi tháo dây trói trật cánh
khuỷu ở sau lưng thầy nhưng y tá Toành không chịu. Theo ư Toành,
cứ để như thế rồi trói luôn vào cây
cột. C̣ Toe, rồi cả Hĩm Xoa không tán thành bởi
lẽ, nếu để vướng hai tay trật sau
lưng th́ làm sao mà trói
được, đă vừa cấn cái… lại không
chắc chắn. Phải tháo ra rồi cũng trói hai tay sau
cây cột th́ tiện lợi hơn. Ba tên căi nhau. Ông
Đội trưởng lại đứng ra phân xử.
- Sau
trước ǵ rồi cũng phải tháo dây thừng,
cởi trói ra - Ông ta nói - Bắn xong rồi, c̣n phải cho
nó xuống huyệt nằm để mà lấp đất
chứ!
Toành
vẫn c̣n cay cú:
-
Để ló chết trong tư thế bị trói mà chôn
nại không hơn à? Như
thế mới đúng cách. Sang tới Bên Ấy ló có
muốn ngửa tay đi ăn xin bà con lông dân cũng không
được. Phải thế chứ!
C̣ Toe,
Hĩm Xoa lặng lẽ làm theo phán quyết của
Đội. Thoáng chốc, họ đă cởi tháo hai tay
thầy rồi trói ngoặt ra phía sau
cây cột; một cuộn thừng quấn năm sáu ṿng
từ ngang ngực xuống bụng. Một đoạn
thừng buộc hai ống chân vào cột…
Trói
rất chắc, thở cũng đă khó, chứ chưa nói đến
muốn cụ cựa…
Ông
Đội khẽ ra lệnh:
-
Bịt mắt nó lại. Miếng giẻ đâu rồi?
-
Dạ. Có… có đây…
Toành nói
sau lưng thầy. Vội bước lên, lôi trong túi áo ra một đoạn vải dài đă
buộc nối, rộng bản chừng ba ngón tay chập lại, hắn làm một ṿng quanh
đầu thầy rồi buộc thắt phía sau gáy. Đoạn vải đen đă
cũ, khăm khắm mùi mồ hôi nước tiểu Toành
đặt để chưa đúng cách, trước
lỏng sau chặt, hơi tụt xuống sống mũi… Thằng hậu đậu!
Chứng nào vẫn tật ấy. Y hệt như năm
xưa buộc ga-rô, quấn bông băng cho anh em
thương binh.
-
Đồng chí Đông đâu rồi?
Ông
Đội nói nghe khản cả tiếng.
-
Dạ thưa Đội, có… có tôi.
-
Từ năy giờ đi đâu, sao chưa đứng vào hàng
ngũ?
-
Dạ… dạ…
Thật
lạ lùng. Lệ Uyên ơi! Nói ra hẳn không ai tin: thầy
muốn gặp lại, thấy mặt chú Đông! Cả
nhà ta không có ai được đến đây để…
tiễn đưa thầy. Ḍng họ Mai vắng mặt,
diệt vong hết rồi sao? Thôi th́, dù chú ấy có thay ḷng
đổi dạ đi nữa vẫn c̣n là con nuôi của
ông bà, vẫn là dấu vết, hơi hướng của
ḍng họ Mai chúng ta! Sự ngu dốt kém cỏi của con
người hoá ra đôi lúc
cũng cần thiết: thầy vẫn thấy
được mờ mờ qua băng giẻ buộc che
hai con mắt. Ḱa! Chú Đông đang nh́n thầy, hố
mắt hoảng loạn, tay run
run giơ ra cầm lấy khẩu súng trường.
Ông
Đội điểm danh đủ 6 tên: Toành, C̣ Toe,
Hĩm Xoan hai anh dân quân và Lê Trạch Đông. Sáu
người đứng dàn thành hàng
ngang.
-
Chú ư! Tất cả làm theo lệnh tôi!
Ông
Đội vừa nói dứt câu th́ ai kia từ đám
đông xô đẩy, chen lấn người bước
ra… Người đàn bà này đâu phải ai xa lạ, thím Đông, vợ Mai Duy Đông, tóc
tai loà xoà, miệng chửi bới, hai tay vùng vẫy giằng lấy
khẩu súng của chồng làm chú Đông loạng choạng để mũi súng
quệt xuống đất.
- Anh hèn
nhát, anh sợ… anh không dám bắn nó hả? - Thím Đông hét
lên - Đưa súng đây, tôi bắn cho! Thằng Vỹ
phải đền nợ máu!
Cả
đấu trường nhốn nháo. Thần Chết
cũng sững lại, đưa mắt nh́n về phía
người đàn bà lạ lùng đó. Thím Đông nhà ta, không phải là ai khác, đă xô
chồng ngă dúi dụi lăn quay trên đất, hùng hổ
cầm khẩu súng trường đứng vào vị trí
của chồng.
Vĩnh
biệt!
Vĩnh
biệt Nga Sơn quê hương ngàn đời! Vĩnh
biệt ḍng họ Mai! Vĩnh biệt Thầy Mẹ kính yêu!
Vĩnh biệt vợ hiền thương! Vĩnh biệt Thanh Tâm, Lệ
Uyên, các con yêu quư… Mai Duy Vỹ đi đây!
Trước
mắt thầy lần lượt hiện ra từng khuôn
mặt thân thương yêu dấu. Lệ Uyên ơi! Con gái
yêu của thầy! Đừng nh́n thầy như thế!
Đừng buồn! Đừng khóc! Đừng oán trách
thầy để con côi cút
giữa Trần gian!
- Tất
cả các đồng chí làm theo lệnh tôi! - tiếng ông
Đội nhắc lại -
Bồng súng lên!
Sáu cây súng
cùng giương lên nhằm về một phía - Mai Duy Vỹ!
CHƯƠNG
44
CHÔN SỐNG
-
Bắn!
Năm
viên đạn nổ cùng một lúc. Một viên đạn
nổ tiếp theo. Viên đạn chính xác hơn cả của
y tá Toành trúng vào ngực phải, xuyên qua phổi. Bốn viên kia vào bụng,
cổ, tay, chân. Và viên sau cùng, có
lẽ của thím Đông, bay sượt qua đầu
thầy. Một tràng vỗ tay nghe rời rạc
đứt quăng. Toành chống súng xuống đất, nhe
răng cười. Nghĩ ngợi thế nào, hắn
lại quay đầu lại đám đông quần chúng - Quân Chủ lực Cách mạng la
lên:
- Sao
vỗ tay ít thế? Chỉ vỗ vậy thôi à? Ơi bà con
ơi! Vỗ tay nên! Vỗ
mạnh nên! Lào lào!…
Im
lặng.
Ông
Đội bước tới, nh́n hai con mắt thầy
vẫn c̣n mở, toàn thân run
giật, nói:
-
Thằng Vỹ c̣n sống hả?
Họ
xúm nhau lại, từng người cúi đầu xuống
nh́n.
-
Dạ, c̣n sống…
Y Tá Toành
cúi đầu sát xuống nh́n vào mắt thầy, lùi lại
nói với ông Đội:
- Xin đề nghị
đồng chí… bắn thêm cho ló một phát lữa vào đầu, thế nà
chắc ăn.
Ông
Đội ngần ngừ. Toành vẫn bám dai:
-
Theo đúng nuật quốc tế mà! Các lơi đều
nàm thế…
Ông
Đội lầm bầm:
- Sáu
người bắn vào một cái xác không hồn mà rồi
cũng không xong! Các đồng chí làm ăn như cứt!
Bộ đội ngoài chiến trường mà như
thế ni có mà thằng Pháp nó chịu giơ tay đầu hàng cho!
Toành
đế theo:
- Thôi, các
đồng chí ạ. Nần lày ta rút kinh nghiệm cho những nần sau…
Ông
Đội lừ lừ nh́n hắn, hự một
tiếng:
-
Lần sau là thế quái nào? Đồng chí nói năng ǵ
lạ. Lần nào nữa?
Đám
đông quần chúng, Quân Chủ lực Cách mạng đang nhốn nháo hoảng loạn. Cái
đê người vỡ dưới kia ầm ào tiếng
kêu la lẫn tiếng khóc… Những bàn tay bưng che…
Những chiếc nón rách úp trùm mặt.
Ông
Đội bối rối nói:
- Các
đồng chí! Đằng nào nữa, sớm muộn
trước sau ǵ thằng Vỹ cũng chết. Chỉ
lát nữa thôi. Chi bằng lôi cổ nó xuống huyệt chôn quách đi cho rồi! Tôi
ra lệnh: Chôn! Chôn ngay!
Họ xúm
nhau lại quanh cây cột, tháo gỡ dây thừng giằng
buộc thi thể tội nhân. C̣ Toe càu nhàu rằng Hĩm
Xoa buộc quá chặt bây giờ khó gỡ nút. Hĩm Xoa
gọi thêm mấy dân quân nữa tới giúp việc. Họ
dùng liềm giật, lấy dao cứa đứt. Thầy
tụt xuống, tụt xuống… cho tới khi hai
đoạn dây cuối cùng buộc hai ống chân
đứt sổ th́ thầy đổ xuống, lăn ra
đất…
Bỗng
nhiên, sự Sống từ Trời cao xuống, từ
dưới Đất lên, hay
từ ḍng giống họ Mai xưa mấy ngàn năm Hùng
Vương dựng nước trở về làm
thầy hồi tỉnh. Nhịp đập trở lại
trái tim, hơi thở mở hai
buồng phổi, óc năo phát sáng.
Chẳng
biết thần linh nào hiện ra sai khiến, bảo
thầy chắp hai tay, run rẩy đưa lên trước
ngực… Thầy nói:
-
Tôi lạy các ông… đừng chôn sống tôi… cho tôi sống…
để tôi chữa bệnh cho dân…
Ông
Đội ngẩn người ra chốc lát, cau mày, h́nh
như không hiểu ư nghĩa câu nói của thầy.
Thầy
lặp lại:
-
Cho tôi sống… tôi chữa bệnh cho dân…
Rồi
đuối hơi, lịm ngất đi. Máu từ đâu
lại ứa ra, kéo màn che cả
bầu trời trước mắt.
Y
tá Toành rít răng, giọng khàn đục nghe vẳng bên
tai:
-
Chữa bệnh cái ǵ! Có mà mày nại giết hại bà con
lông dân ấy chứ.
Lợ máu phải đền lợ máu! Thằng Vỹ, mày
phải chết! Lào, lào… các
đồng chí, mỗi người lắm một tay,
một chân cùng tôi…
Hắn
cùng c̣ Toe, Hĩm Xoa, thím Đông - bốn tên nắm hai tay hai chân thầy lôi kéo đến
huyệt chôn.
Máu
ộc ra từ người Mai Duy Vỹ, rớt chảy
trên đất cát một vệt dài. Ném thầy xuống huyệt rồi, tay chân
họ đều dính máu. C̣ Toe, thím Đông vừa
đưa tay lau quệt vào ống quần vừa nhổ nước bọt.
Cái
huyệt vừa hẹp lại vừa ngắn. Vùng
đất này cát pha, có cứng lắm đâu mà sáng nay họ đào qua loa
chiếu lệ. Mai Duy Vỹ chỉ cao mét sáu dư vài phân
thôi mà họ không để cho hắn được nằm duỗi thẳng tay chân trong
huyệt. Lại phải kéo hai chân, nhô đầu gối
lên, co hai ống sậy. Đă vậy, chiều sâu cũng
chỉ bằng nửa cây gậy chống, chắc
hồn ma Vỹ có thể đêm đêm giơ tay lên chỉ
trỏ, tṛ chuyện với các
v́ sao! Mà biết đâu đấy, chỉ một hai
trận mưa xuống,
đất trôi đi hết là xương thịt hắn
lại ḷi ra cho quạ rỉa, chó tha…
Nga Sơn
ơi! Đất Mẹ mênh mang sâu dày cho cói mọc
người sinh, sao nỡ để đứa con bất
hạnh của ḿnh phải nằm xuống trong cái nhà
mồ theo kiểu chuột chui dế đùn thế này!
Luật nhân quả bù trừ bao trùm khắp thế gian. Ai
bảo ông bà tổ tiên họ Mai xưa khai phá đất
hoang rừng thiêng làm ǵ, ôm cho lắm vườn ruộng
vào ḿnh, để vạ Cải cách Ruộng đất bây
giờ lại cho con cháu, bắt
Mai Duy Vỹ phải độc đắc trúng cái án tử
h́nh này!
Lệ
Uyên ơi! Thảo nào ông nội con lúc hấp hối đă
sấm truyền lại: sau khi tôi chết rồi, con cháu có
chôn tôi th́ khỏi cần tới ḥm ván, nhưng nhớ
đào huyệt thật sâu, chôn thật sâu; dẫu thân xác có
làm mồi cho giun dế cũng được, miễn sao
đừng để người
đời đụng tới, moi t́m ra!…
“Anh
Vỹ!”
Có
tiếng ai vừa gọi thầy?
“Đồng
chí Mai Duy Vỹ!”
“Có
tôi! Ai gọi tôi đó?”
“Cao
Hữu Hiến đây…”
“Cao
Hữu Hiến, Ty trưởng Ty Lao động Thanh Hoá
phải không?”
“Vâng.
Chính tôi!”
Giữa
trời mây u ám, tia chớp loé hiện ra một khuôn mặt
thân thương quen thuộc. Kém thầy một tuổi,
con người mới 35 xuân nở một nụ
cười tươi, hàm răng sáng tuyệt đẹp…
Cái đẹp của một thời hăng say bốc
lửa, dâng trọn cuộc đời cho lư tưởng
Cộng sản mà Paul Vaillant Couturier gọi là “Mùa xuân
của nhân loại”.
“Vĩnh
biệt Mai Duy Vỹ! Tôi đi trước anh nhé!”
“Ơ ḱa!
Sao vội vàng thế? Lại không nói với nhau
được một lời
hay sao? Hiến ơi!”
“Biết
nói ǵ bây giờ? Vỹ ơi! Ở đời chẳng có
cái ǵ bất biến vĩnh cữu, kể cả chủ
nghĩa Cộng sản. Tôi vào Đảng Cộng sản
từ thời bí mật, trước anh 5 năm. Vậy mà
bây giờ, cũng như anh, bọn côn đồ, lưu
manh, cơ hội chúng nó dám gán cho ḿnh cái nhăn hiệu là
Quốc Dân Đảng. Đồng chí Vỹ à, thời nay
chúng nó cũng chẳng biết
Mác Ăngghen là ai đâu; toàn nói mép cả thôi, và dĩ
nhiên cái đầu Nguyễn Thái Học cùng với 11 cái
đầu đồng chí của ông ấy rơi xuống
trong khởi nghĩa Yên bái, thậm chí cả đầu
của Nguyễn Thị Minh Khai trong khởi nghĩa Nam
Kỳ chúng cũng chẳng quan tâm…
Tôi
không có được sự kiềm chế như anh.
Chữ Nhẫn trong tôi yếu lắm. Sáng hôm qua, nhân lúc người gác ngục
đi ra ngoài đánh rớt cái gương con trước
cửa, tôi vội nhặt lấy. Thừa biết sớm
muộn ǵ cũng chỉ vài hôm nữa chúng nó sẽ tới
dẫn ḿnh đi cho “ăn
kẹo đồng” theo lối nói đùa cợt mất
dạy của tụi này, đồng chí Vỹ ạ, tôi
quyết định tự tử! Trọn đời, tôi
chỉ chấp nhận một toà án duy nhất - đó là
Đảng Cộng sản của tôi.
V́ vậy, tôi đă đập vỡ cái
gương tṛn vừa bằng ḷng bàn tay ra làm hai mảnh.
Chọn cái mảnh có mũi nhọn sắc hơn, tôi rạch thẳng một
đường từ cổ họng chạy xuống
tới bụng dưới; rồi thọc tay vào trong sâu
lôi rút hết tất cả ruột non ruột già ra… Máu chảy lai láng từ trong nhà tù,
ngoằn ngoèo tới ngoài cửa, ḅ ra tới sân…
Bọn
chúng trông thấy, hốt hoảng chạy vào. Tôi giơ tay
chỉ đống ruột bầy nhầy, ḷng tḥng
trước bụng nói:
“Xin
nhờ các ông báo cáo lên trên… để cho Bác Hồ và Anh
Trường Chinh biết ruột gan ḷng dạ của Cao
Hữu Hiến, đảng viên Cộng sản trong
trắng như thế này đây!”…
Nói
vừa hết câu, tôi tắt thở.
Vợ con tôi ở xa. Các
con c̣n nhỏ.
Chỉ
có hai cháu Duy và Sơn, con của hai ông anh ruột, may vừa tới kịp. Các cháu dùng một cái
đọi lớn, loại bát múc canh, úp vào trước bụng, che lại để
cho mớ gan ruột khỏi sổ ra ḷng tḥng; đoạn lấy dây chuối
buộc chận ṿng từ bụng xuống dưới
lưng, rồi đặt
tôi lên vơng cáng đưa về nhà.
Tôi quê
ở Thừa Thiên - Huế. V́ tham gia Cách mạng nên xa nhà từ nhỏ, không
được như anh nằm trong ḷng Đất Mẹ
Nga Sơn - Thanh Hoá. Cũng
như anh, tôi chết chôn không ván không ḥm, bó cuốn
manh chiếu rách; chỉ hơn anh mỗi một
điều là cái huyệt của tôi các cháu đào rất
sâu, nằm ở dưới này duỗi thẳng chân tay rộng răi và thoải mái!
Vĩnh
biệt nhé, bạn thân yêu Mai Duy Vỹ! Tôi về
trước anh đây! Hẹn
gặp lại!”
Tia
chớp lại loé sáng. Con Rồng Đỏ hiện lên. Cao
Hữu Hiến vụt biến.
Ông Đội vai mang xà
cột, đi lại quanh huyệt tỏ vẻ bực
bội:
- Có
mỗi cái hố chôn cỏn con này mà đào cũng không xong!
Từ sáng tới giờ, mấy cậu dân quân làm chi,
ngồi tán phét hả? Mần ăn như cứt!
Đồng chí Toành! Tôi đă phân công đồng chí…
Toành
lư sự, phân bua:
- Báo cáo
anh… có sao đâu ạ. Bà con lông dân ta chôn ló thế lày nà phúc cho ló nắm rồi.
Chôn thằng Vỹ th́ cũng như chôn con chó, con nợn…
Tôi có cách lày, giải quyết nà xong ngay!
Vừa
dứt câu hắn đă vớ lấy cái cuốc,
đứng dạng háng trên huyệt, quay ngược lưỡi cuốc, trở
cán giơ lên cao bặm môi méo mồm nện hai cái thật
mạnh xuống hai đầu gối thầy.
Rắc!
Rắc!
-
Như thế lày đă được chưa, các
đồng chí?
Hắn
quay lại nh́n mọi người mắt long lên, miệng
cười cười. Sự sống trong người
thầy như ḍng điện giật run, bật lên, co
duỗi. Và hai con mắt lại tự nhiên mở ra
trừng trừng nh́n những con quỷ, không phải
đâu, những con người! Thanh Tâm, Lệ Uyên, ơi các
con yêu thương, thầy vẫn c̣n sống mà.
C̣ Toe
cầm thuổng, Hĩm Xoa cầm mai, hai tên vọt lên đứng hai bên.
-
Vỹ! Cho mày về chầu tiên tổ họ Mai nhà mày!
Toe
vừa nói vừa nghiến răng giơ cao cây thuổng,
giộng một nhát xuống đầu thầy. Xoa méo mồm trợn mắt
giơ cao cán mai làm tiếp
một nhát vào ngay mắt bên phải thầy.
- Vỹ
ơi! Cho mày về chơi Âm phủ để mày chữa
bệnh cho thằng cha sinh ra mày, con mẹ đẻ ra mày,
chữa cho cái lũ địa chủ
bóc lột, bọn Việt gian bán nước…
Thím
Đông cũng cầm cuốc chen vào, cuốc lấy
cuốc để lên đầu “Thằng Vỹ”.
- Tiên
sư cha thằng Vỹ! Mả mẹ thằng Vỹ! - Tay
cuốc mồm la - Tiệt ṇi tiệt giống họ Mai
nhà mi nhé.
Xem ra thím
Đông đă thoả măn bần cố, toại nguyện
trăm phần trăm: vừa trút khỏi thân ḿnh của
nợ thành phần địa chủ, lại
được mang cái lư lịch cao sang bần cố,
đứng vào hàng ngũ các đồng chí. Cũng như
mấy người kia, trên tay thím nhầy nhụa những
máu và óc của Mai Duy Vỹ…
Lưỡi
mai, lưỡi cuốc cứ va chạm nhau chan chát, rào
rạo… Từng mảng óc hoà lẫn máu văng ra, phọt
lên tung toé…
Lê
Trạch Đông lùi lại sau… Tuân lệnh ông Đội chú
ấy cũng cầm xẻng xúc đất đổ
xuống huyệt, làm theo những người kia.
Chỉ
trong thoáng chốc đất cát đă chồng chất
lấp đầy xác Mai Duy Vỹ - nấm mồ của
đứa con ḍng họ Mai ở xứ Nga Sơn - Thanh Hoá.
Một
ngọn Tam Lênh bé tí trong cơi người ngập tràn máu và nước mắt.
CHƯƠNG 45
CHA ĐI TRƯỚC, CON VỀ SAU…
BÂY GIỜ CON LẠI ĐI TRƯỚC…
-
Thầy ơi! Thầy ở đâu rồi?
Lệ
Uyên hoảng hốt kêu lên, hai tay quờ quạng…
- Đây,
đây… thầy của con đây. - Tiếng ông Vỹ nghe
từ đâu xa xăm, vẫn tŕu mến dịu dàng -
Thầy kể xong rồi đấy. Những điều con muốn biết mà gần
nửa thế kỷ nay thời gian c̣n kéo màn che kín,
phủ đầy cả một biển máu và nước mắt. Thôi nhé, thầy đi…
-
Một lần nữa thầy lại bỏ rơi
đứa con côi cút tội nghiệp của thầy ư?
Lệ
Uyên bật khóc. Ông Vỹ cười không thành tiếng;
nụ cười
c̣n nguyên nỗi buồn đau… lại hiện ra
trước mặt hai chị em.
-
Thầy chúc mừng các con đă được Siêu thoát …
Thùy
Dương cũng ngỡ ngàng bối rối:
- Bác
bỏ chúng con đi thật à? Bao giờ th́ bác mới
được Siêu thoát?
Ông
Vỹ ngập ngừng, đắn đo:
-
Bác c̣n phải chờ…
-
Bác đă gặp Tiến sĩ Vơ Ngọc Châu chưa?
- Có.
Gặp rồi. Tiến sĩ Châu bảo tôi phải chờ
tới năm hai ngàn lẻ 19…
-
Sao phải tới 2000 lẻ 19, thưa bác?
- Năm
đó, Bên Này sẽ có một biến cố trọng
đại. Ông Châu cũng chờ… tới 2019 mới có
người ở Bên Này sang Bên Ấy giữ Sổ Siêu Thoát thay phiên cho Tiến sĩ… Các
con ạ, loài người ở Bên Này do đa phần
không nắm được Thuyết Tương
Đối, lại luôn bị nhốt
tù trong Bể Khổ nên họ mỗi ngày một thêm
nhỏ nhoi, tham lam, đố kị. V́ bị ép
buộc sống bên nhau, lại chịu một Trời
độc đoán đè nén nên càng ngày họ càng hèn hạ,
càng hiểm độc tàn ác
hơn. Cái mối dây ràng buộc liên hệ đó tệ
hại khủng khiếp đến nỗi sang
tới Bên Ấy rồi không phải ai cũng dễ dàng
được Siêu thoát cả…
Những
kẻ độc ác một cách hồn nhiên đó, cháu Thùy
Dương ạ, hầu hết đều mắc tội
và phạm tội. Họ vừa là nạn nhân lại
vừa là phạm nhân… Làm sao chúng ta dễ dàng thoát ra
khỏi mối liên hệ
ấy? Bác đă nói rồi… C̣n trường hợp bác th́…
- Cháu
hiểu. - Thùy Dương bồng bột - Ôi bác! Trong gia
đ́nh Nhân loại ai cũng chỉ mong có được
một người cha như bác;
và cũng… mong sinh ra được một người con
như bác..
- Cháu không
quá lời đấy chứ? Bác đă gặp cha của
cháu… Ông ấy là một
người rất đáng mến…
-
Bác ơi! Hồi c̣n ở Bên Này, dẫu nhiều khi
sống lăng nhăng bậy bạ, cháu vẫn ăn nói thật ḷng không chút
giả trá. Chị Uyên không am hiểu đời sống xă
hội bằng cháu đâu. Cháu biết rơ, cái lũ tự
phong ta đây là thần thánh, chẳng có đứa nào
đáng được gọi là
người, toàn một bọn chó má, quỷ sứ,
đồ ba que xỏ lá cả!
Ông
Vỹ ngần ngừ, phân vân.
Thùy
Dương càng hăng:
- Nếu
bác theo đạo Ki-tô, chắc Toà thánh La Mă đă phong Thánh cho bác!
Ông Vỹ
cười, vẫn nụ cười không thành tiếng, êm
sâu như một vết
thương.
- Không dám
đâu, cháu! Bác nào có mơ ước làm một Jeanne d’ Arc?
-
Thế th́… chắc bác phải là một vị Bồ Tát?
Ông
Vỹ lại cười:
-
Càng không dám… hai chữ Bồ Tát theo giáo lư Nhà Phật mà có lần bác t́m hiểu, có nghĩa là
“chúng sinh đă giải ngộ”. Phải
không cháu? Giải ngộ cho ḿnh chưa đủ, c̣n
phải giải ngộ cho
người khác nữa! Thùy Dương ơi, bác Vỹ
của cháu, nếu tính tuổi từ lúc mới sinh ra
đến bây giờ cũng đă gần cả trăm
năm trong cơi người…
Vậy mà, bác vẫn chưa hiểu được ḿnh là
ai; v́ sao ḿnh lại sinh ra vào đúng cái thời khốc
hại, ê chề, độc địa, tối
tăm có một không hai này? Và cái ṿng luân hồi sinh tử,
tử sinh này đến bao giờ mới ngừng quay?
Ngậm
ngùi một lúc, ông nói thêm như để cho riêng ḿnh nghe:
- Tôi theo
Đạo Con Người, đạo của chính tôi. Lúc
ở Bên Này sang Bên Ấy, tôi đă nhận biết: có
Trời ở trên đầu, có Đất ở
dưới chân, có cha mẹ ông bà tổ tiên họ Mai sinh ra
ḿnh. Đạo của tôi là
Đạo Ông Bà Tổ Tiên, Đạo ở quanh ḿnh,
khắp nơi khắp chốn…
Rồi quay sang Lệ Uyên:
- Con gái
yêu của thầy mẹ… Thầy đă kể hết
rồi. Toại nguyện
chưa? Chúc mừng các con được Siêu thoát. Thôi,
để thầy đi!
Lệ
Uyên hờn dỗi, vùng vằng:
- Chúng con
không thể chờ thầy được sao? Thầy khoan
hẵng đi!
Ông
Vỹ chăm chú nh́n Lệ Uyên:
- Lạ
thật! Con không có thay đổi bao nhiêu. Từ hồi
ấy cho đến nay, 45 năm
rồi, làn môi con gái họ Mai tôi vẫn thế, dỗi
hờn, phụng phịu, thấm mọng nước
mắt…
Đột
nhiên ông thoáng giật ḿnh, sửng sốt:
-
Thôi, thầy phải đi…
Lệ
Uyên hốt hoảng:
-
Không! Không! Thầy cho con đi với! Biết thế này
th́… thà con đừng có Siêu thoát nữa!
Ông
Vỹ giơ tay ngăn lại:
-
Đừng! Đừng! Con người ta có mệnh
hệ, con ơi! Mệnh hệ con từ lúc mới sinh ra là để
gắn với thầy. 45 năm qua, cha con ḿnh chỉ
nghĩ tới nhau. Thầy mong gặp lại con ở Bên
Này để kể lại đầu đuôi câu chuyện
cho con nghe. Nếu chỉ riêng có hai cha con ḿnh thôi th́ như vậy e rằng chưa
đủ. Bởi Nhân loại-Lớn cần có
một người thứ ba nữa xác nhận, chứng
kiến, đó là Thùy Dương,
em kết nghĩa của con. Thùy Dương cũng là con
của thầy mẹ. Các con cứ yên tâm mà Siêu thoát. Thôi
nhé, thầy đi…
Ông Vỹ
lùi lại. H́nh bóng ông nhỏ dần… Chỉ c̣n một đốm sáng loé lên.
Rồi
tắt.
Biến…
CHƯƠNG 46
ĐOẠN KẾT (EPILOGUE)
SIÊU THOÁT
Lại
trở về Bên Ấy…
Họ
ngồi bên nhau im lặng.
Họ
biết cái câu ḿnh hoặc người kia sẽ nói lên,
chỉ câu ấy thôi, hễ đă nói xong là một
đột biến sẽ xẩy ra. Đột biến này
xem ra rồi quá sức chịu đựng!
Lúc c̣n
ở Dương gian, như mọi con người, cả
hai đều sợ Chết, bây giờ một nỗi
sợ khác xem ra c̣n lớn hơn, chiếm đoạt,
ngự trị h́nh hài họ, thứ h́nh hài mảnh hơn
ánh sáng, nhẹ hơn không khí
cả siêu lần: nỗi sợ phải xa nhau!
Lệ
Uyên chăm chú nh́n cô em kết nghĩa.
Cái
đầu hơi nhỏ, mái tóc uốn kiểu con trai úp lên
như chiếc súp lơ Đà Lạt nhuộm màu hoe
khiến cho ả có vẻ ngây thơ dễ thương
của một cô bé lai Tây, góp phần xoá bớt, mờ
nhạt đi những nét
chưa hoàn hảo của cánh mũi hếch, vầng trán
hơi cao mà hẹp, hai con
mắt hơi lồi bộc lộ sự ĺ lợm ham
hố lắm khi nóng nảy đến dại dột…
Để
bù trừ lại cái “trôốc” chưa lấy ǵ làm hoàn
mỹ lắm, Bà Mụ đă nặn cho cô em một cặp
môi phải nói rất chi là đáng kể, dẫu rằng có
hơi mỏng một chút nhưng lại rất
tươi. Màu tươi tự nhiên
như cánh sen, nụ hồng lẽ ra chẳng cần
tới mỹ phẩm (Thùy Dương đă hối
hận v́ đua đ̣i lây nhiễm phải thói quen dại
dột thời hiện đại), mỗi khi cần
mở ra hay khép lại để tŕnh diễn hai hàm răng
sáng bóng đều đặn không thể chê vào đâu
được, đến nỗi Lệ Uyên đôi lúc
cũng phải thầm so sánh tự thấy hàm răng
của ḿnh đúng là chưa đạt được
điểm 10 như vậy, Hàm răng ấy khi phát ra, dù là âm điệu chọ
chẹ của xứ “cà cuống có đuôi” vẫn
đầy ma lực cuốn hút ḷng hảo tâm, hào hiệp
của phái mạnh!
Có lẽ
chàng Lê Vĩnh thuở hoa niên đă đắm say một
trong hai cái “góc” của nàng Phan Thị Thùy Dương
thuở ban đầu gặp gỡ
làm chi; sau này th́ kể sao cho hết những đấng mày
râu thời Đổi mới Tư duy lần
lượt xếp hàng đứng sau, thế chân cho Lê
Vĩnh, kẻ đă có tội phản bội và cũng góp
công đột phá đổi mới nàng…
Nổi
trội hơn cả có lẽ là Lăo Hướn và kết
thúc là đại tá Mai Đắc Xuân, người t́nh lư
tưởng của nàng!
Biết
kể sao cho hết bao kẻ không tên và có tên đă tự nguyện xung phong hoàn thành nhiệm
vụ để làm thoả măn khát vọng đổi đời của cô gái núi
Hồng sông Lam!
Không ai
đáng yêu dễ thương hơn cô em kết nghĩa
của ḿnh. Lệ Uyên thầm
nghĩ. Mọi tiêu chuẩn về đạo đức,
thẩm mỹ ở Bên Ấy, qua bao đời
tưởng đă thành khuôn mẫu cho mọi người noi theo làm theo, bây giờ trở nên
mớ ḅng bong phế thải những lầm lẫn và ngu
dốt!
Trong khi
đó, Thùy Dương đă ngả người vào ḷng
chị kết nghĩa, mắt nhắm tay ôm gh́… Lệ Uyên
khẽ kéo cái váy đầm bó xuống, phủ che
đầu gối và cặp gị hơi nhỏ nhưng
rất thẳng của cô em.
Cử chỉ này làm Thùy Dương thoáng mỉm nụ
cười biết ơn. Nụ cười dễ
thương đến nỗi không kiềm chế
được, Lệ Uyên phải cúi xuống đặt
một cái hôn lên cặp môi hồng thắm, quên mất ḿnh
đang luyến ái đồng tính, điều mà nhân
loại vẫn c̣n tranh căi, rào
cản…
Thùy
Dương mở mắt ra. Ả cười. Trong mắt
ả, người chị hiền
thục và xinh đẹp, gần như trái ngược
hoàn toàn với h́nh thể tư chất con
người ả một thời, tưởng chừng
như mâu thuẫn đến chối bỏ, phủ
nhận th́ nay đă gắn bó đến hài hoà: Chị
của em, em yêu chị biết
bao! Em chẳng bao giờ muốn xa chị!…
Lệ
Uyên đọc được ư nghĩ ấy. Lẽ ra
chị phải đặt ngay một cái hôn tiếp lên đôi mắt kia, nhưng đă
ngập ngừng khiến cặp môi yếu đuối
của ả phải run lên, mấp máy…
-
Chị em ḿnh…
Lệ
Uyên vội vàng đặt bàn tay lên miệng Thùy Dương
nhưng đâu c̣n kịp
nữa, một phần nửa câu c̣n lại của cô em
đă lọt qua kẽ tay
chị, dẫu hơi lệch pha nhưng vẫn rành
rọt:
-
… Rồi sẽ ra sao đây?
Đột
nhiên cả hai cùng rùng lên một cái, buông rời… Họ đều cố cưỡng
lại, chới với, xáp vào nhau. Nhưng một lực
kéo đến từ đâu
hai phía, giữ họ lại, lôi họ ra khiến họ
cảm thấy ḿnh mỗi lúc một đuối
sức và sự gắng sức của cả hai trở nên
vô nghĩa. Người nọ thấy người kia
cứ như giật lùi, trôi đi… mỗi lúc một cách xa nhau hơn.
-
Lệ Uyên ơi!
Thùy
Dương kêu lên rồi bật khóc.
-
Thùy Dương! Chị đây mà…
Lệ
Uyên nghẹn ngào, giơ tay vẫy…
-
Chị…
-
Em…
-
Ơ ḱa! Chúng ta măi măi xa nhau hay sao?
-
Chị em ḿnh rồi sẽ… lại gặp nhau…
-
Gặp nhau ở đâu?
-
Chưa rơ. Nhưng chắc rồi sẽ… gặp lại
nhau. Em cứ tin đi!
-
Biết thế này th́ chị em ḿnh thôi đừng có Siêu
thoát nữa! Siêu thoát
nỏ làm cái chi! Lệ Uyên ơi, em có mơ chi Thiên
Đường, Niết Bàn như người ta đâu! Mà
Thiên Đường, Niết Bàn dù có thật đi nữa
rồi cũng chỉ nên hiện hữu, tồn tại
ngay trong hiện tại của
Cơi Trần chúng ta… Kiếp trước đă qua rồi,
kiếp sau c̣n nói làm quái ǵ! Cứ ngồi đó mà chờ
ngày mai tươi đẹp, mà đợi kiếp sau
đàng hoàng! Chị em ḿnh thà bị nhốt giam đời
đời, muôn năm trong cái nhà tù đoạn
trường, Bể Khổ Trần
gian… c̣n hơn là Siêu thoát như
thế này!
Tiếng
nấc.
Tiếng
khóc.
Hai
đốm sáng nhỏ dần.
Tắt.
Biến.
Đầu năm 2002 - Noel 2005
Hoàn chỉnh năm 2009
TRẦN
THẾ NHÂN
BẠT
Thưa
Quư độc giả!
Đến
đây Quư vị đă đọc xong cuốn “Ngày Long
Trời Đêm Lở Đất”.
Với
những vị đă cao niên, từng kinh qua thực
trạng xă hội Miền Bắc Việt Nam trong những
năm 50 của thế kỷ trước, đều
biết chắc chắn rằng cuốn tiểu thuyết
“Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” không khác ǵ một
bộ phim phóng sự với độ xác thực 100%
từ A tới Z.
Nhưng
với những bạn sinh sau đẻ muộn, lại
đang được sống trong một xă hội tự
do dân chủ, rất có thể sẽ cảm thấy khó tin
rằng ở quê hương chúng ta lại có một
thời kỳ khủng khiếp hơn cả cảnh
cuối tầng Địa ngục như vậy. Thật
là ngoài sức tưởng tượng có phải không?!
Nếu các bạn phân vân như vậy, thay v́ tôi lớn
tiếng dơng dạc tuyên bố: xin đem trọn cái mạng
của ḿnh ra đảm bảo cho cái điều không
thể tin được đó là SỰ THẬT, th́ tôi
chỉ xin mời quư bạn hăy ghé về Việt Nam lúc này –
thời kỳ những năm đầu thiên niên kỷ
thứ ba – mà sống và chiêm nghiệm, dù chỉ một ngày
thôi – cũng đủ để bạn nếm trải
những ǵ đă được “Ngày Long Trời Đêm
Lở Đất” ghi lại. Cảnh ấy, người
ấy, không khí xă hội ấy, bạn tưởng chỉ
là một quá khứ ngắn ngủi bi thảm của dân
tộc ư? Không đâu! Thảm trạng ấy vẫn
đang tiếp diễn nhăn tiền.
Quái thai độc tài đảng trị
đă và vẫn đang ở cao trào đào huyệt nhằm
chôn sống cả Dân Tộc. Hăy làm những ǵ trong khả
năng của bạn để mỗi người và
mọi người thấy, biết và hiểu rơ
được điều này, cho bây giờ và cho cả mai
sau./.
Nguyễn
Quảng Tâm.
SUY NGẪM
KHI ĐỌC “NGÀY
LONG TRỜI ĐÊM LỞ ĐẤT”
CỦA TRẦN
THẾ NHÂN
… Ôi ! quê hương
Hỡi những ngày
xưa !
Thủy chung - nhân ái
Tất cả ch́m-ngâm
Trong lừa dối
cuồng điên…
Phùng Cung
(1965)
Trong
suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm
của Dân Tộc ta, chưa từng có một trận
thảm sát nào mà người Việt lại giết
hại người Việt khủng khiếp như trong
cuộc Cải cách Ruộng đất (CCRĐ)
dưới “thời đại Hồ Chí Minh” hồi
giữa thập niên 50 thế kỷ 20! Đó là trận
thảm sát dân lành cực kỳ man rợ do đầu óc
kỳ thị giai cấp, do ư thức hệ Cộng
sản của tập đoàn cầm quyền gây nên!
Trên
thế giới đă từng có nhiều nước làm
CCRĐ. Phần đông người ta làm một cách ôn hoà
bằng cách Nhà nước mua lại số ruộng
đất chủ sở hữu có trên tiêu chuẩn do NN quy
định, hoặc cho phép họ được hiến
tặng. Nhờ đó, các nước ấy đă nhẹ
nhàng xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến,
tạo điều kiện cho nền kinh tế phát
triển mạnh, đồng thời giữ
được hoà khí và ổn định xă hội, tránh
những đảo lộn nguy hại.
Thế
nhưng, các “lănh tụ” Cộng sản th́ cho đó là con
đường “thoả hiệp giai cấp”, không đúng
đường lối chủ nghĩa Marx-Lenin, không
thể hiện tinh thần “đấu tranh giai cấp”,
không phát động được ḷng “căm thù giai
cấp”, không mang tính “cách mạng triệt để”… Theo
họ, CCRĐ phải là một “cuộc cách mạng long
trời lở đất”. Phải “phóng tay phát động
quần chúng”, nghĩa là làm hết sức mănh liệt,
thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, có
thế mới dấy lên ḷng căm thù giai cấp cao
độ trong quần chúng bần cố nông mà họ coi là
“quân chủ lực cách mạng” để đánh gục
giai cấp địa chủ.
Đảng
Cộng Sản dơng dạc tuyên bố CCRĐ là để
thực hiện “người cày có ruộng”, ước
mơ ngàn đời của nông dân. (1) Nhưng, đó chỉ là trên lời nói! C̣n
trong thâm tâm, các “lănh tụ” Cộng sản có một ư
đồ khác hẳn, nhắm những mục tiêu khác
hẳn. Họ dùng khẩu hiệu “người cày có
ruộng” làm “con mồi” nhử nông dân mà họ coi là
“đồng minh chiến lược” (2) đi theo họ
thực hiện những mục đích xa hơn,
độc địa hơn. Họ dùng CCRĐ để
tiêu diệt giới hữu sản bị họ coi là “giai
cấp bóc lột” ở nông thôn, để truy quét các thành
phần mà họ cho là “phản động”, quét sạch các
tư tưởng và hệ thống giá trị đạo
lư cổ truyền nặng về quyền tư hữu,
loại bỏ cuộc sống tâm linh trái với chủ
nghĩa vô thần của họ, xoá bỏ đạo
đức truyền thống của gia đ́nh, thôn xóm mà
nền văn hoá làng xă lâu đời ở nước ta
đă để lại. Chủ ư của họ c̣n là khủng
bố tinh thần nhân dân, gây ra nỗi khiếp sợ
triền miên trong người dân nhằm triệt tiêu
mọi mầm mống chống đối họ. Họ ra
sức xúi giục, kích động ḷng hận thù, gieo
rắc tính độc ác, tham lam, dối trá, đểu cáng…
vào ḷng người nông dân vốn chất phác, hiền lành…
Tất cả những điều đó nhằm mở
đường thực hiện cuộc cách mạng XHCN và
huy động “quân chủ lực cách mạng” xông vào
trận chiến đánh chiếm miền Nam.
Chính
với ư đồ đó, các “lănh tụ” Cộng sản
đă gây ra những tội ác tày trời đối với
Dân Tộc: họ đă biến CCRĐ và Chỉnh
đốn Tổ chức thành một cuộc đày
đọa, tàn sát dân lành và cả các cán bộ đă
từng đứng dưới lá cờ của họ.
Trong lúc nhân dân đang sống yên lành th́ bỗng dưng
Đảng phái những “Đội cải cách” về làng
xă khép “tội” địa chủ cho nửa triệu
người trong nước VN Dân Chủ Cộng Hoà
(với dân số nông thôn hồi đó trên 10 triệu) (3),
và số người này ngay lập tức bị hành
hạ, bị đọa đày, bị giày xéo tận bùn
đen! Hơn nữa, trên 172 ngàn sinh mạng vô tội
đă gục xuống dưới lưỡi gươm
“chuyên chính vô sản” v́ bị quy oan là địa chủ
cường hào gian ác, Việt gian, phản động, gián
điệp, Quốc Dân Đảng! (4) Những cuộc
“đấu tố” với cảnh con đấu cha, vợ
tố chồng, con dâu vu oan cho bố chồng, con rể giá
họa cho mẹ vợ, bà con, hàng xóm, láng giềng tố
điêu lẫn nhau… đă đảo lộn đạo
đức thông thường, giày xéo lên nền văn
hiến lâu đời của người Việt, phá
hoại truyền thống hoà hiếu, “lá lành đùm lá rách”,
“tối lửa tắt đèn có nhau” của cư dân làng xă
nước ta. C̣n điều các “lănh tụ” Cộng
sản không ngừng rao giảng: “xây dựng con
người mới” theo “đạo đức mới”, tức
là “đạo đức Cộng sản” và “tư
tưởng Hồ Chí Minh”, th́… than ôi, ngày nay, nhân dân ta
đă thấy quá rơ “kết quả” thực tế rồi:
đạo đức băng hoại, xă hội sa
đọa, nạn tham nhũng tràn lan, nạn mua quan bán
chức phổ biến, tệ nạn lừa dối,
đảo điên, đểu cáng, độc ác… nhan
nhản khắp nơi trong nước.
C̣n câu
chuyện hoang đường “người cày có ruộng”
hoá ra là… một “quả lừa vĩ đại” mà
Đảng Cộng Sản đă cho nông dân “xơi”
đến bội thực! V́ CCRĐ vừa xong hồi
cuối năm 1956, một số nông dân vừa mới hí
hửng “cắm thẻ nhận ruộng” để
Đảng chụp ảnh quay phim tuyên truyền th́
đến năm 1957-1958, họ đă bị Đảng
lùa vào hợp tác xă để “tiến nhanh, tiến mạnh
lên chủ nghĩa xă hội”. Thế là ruộng đất
của nông dân biến thành của hợp tác xă, c̣n
người nông dân th́ hoàn toàn lệ thuộc vào ban chủ
nhiệm hợp tác xă, vào đảng uỷ và uỷ ban xă
như những nông nô! Đến khi Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà “được” Đảng chuyển thành
Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam th́… chỉ
bằng một câu ngắn gọn trong Điều 19
của Hiến pháp năm 1980 “Đất đai, rừng
núi, sông hồ… đều thuộc sở hữu toàn dân”,
Đảng đă tịch thu một cách ngon ơ toàn bộ
ruộng đất của nông dân, đất đai
của toàn dân! Nông dân và nhân dân bị Đảng
tước đoạt quyền sở hữu về
ruộng đất, nói chung về đất đai, trong
nháy mắt! Thế là ước mơ ngàn đời
của nông dân măi măi vẫn chỉ là… “ước” và
“mơ”!
“Quả
lừa vĩ đại” này của Đảng chẳng
phải một ḿnh nông dân bị mà cả đại bộ
phận nhân dân nước ta cũng bị. Thậm chí
nhiều nạn nhân, khi đă “dựa cọc” rồi,
sắp bị hành quyết mà vẫn chưa tỉnh, cứ
nghĩ rằng tai họa của họ là do mấy “ông bà
Đội” gây ra, nên trước khi chết có người
vẫn gắng gượng kêu lên mấy tiếng “Hồ
Chí Minh muôn năm!”. Con cái của họ, kể cả
nhiều người có học thức mà vẫn cứ
bị lừa cho đến… hơi thở cuối cùng! Mà
chẳng những nhân dân ta, ngay cả một phần dư
luận thế giới, một số nhà đại trí
thức nổi tiếng cũng bị đánh lừa!
Cố nhiên, đến bây giờ th́ thế giới người
ta tỉnh rồi, chỉ có một số khá đông
người Việt Nam ta vẫn c̣n mê muội hoặc…
giả vờ mê muội.
Mỉa
mai thay, nửa thế kỷ sau cuộc “cách mạng long
trời lở đất”, dường như Lịch
sử Việt Nam lại trôi theo ḍng chảy ngược!
CCRĐ (1953-1956) “đă đánh đổ giai cấp
địa chủ” th́ giờ đây, ở nước
Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cuối
thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, lại
xuất hiện những địa chủ mới mà dân ta
gọi là bọn “cường hào đỏ”, v́ chúng là
những cán bộ Cộng sản lợi dụng chức
quyền chiếm dụng đất đai (là sở
hữu toàn dân!) phát canh, thu tô, cho vay nặng lăi ở nông
thôn để bóc lột chẳng khác ǵ địa chủ
thời xưa. Giáo sư Viện sĩ Đào
Thế Tuấn đă phải nói thẳng thừng: “Không có
nước nào (như ở nước ta) người nông
dân bị bạc đăi, bóc lột, hiếp đáp bởi
bọn cường hào mới, đa số là đảng
viên trong các đảng ủy điạ phương
được cấp trên thông đồng che chở. Không
ở đâu, chưa bao giờ nông dân bị tước
đoạt đất ruộng qua “thu hồi” kiểu
cưỡng bức và tùy tiện, với chính sách
“đền bù” nhảm nhí, “bèo bọt” chỉ bằng
một phần 10, có khi chỉ một phần 20 của giá
trị thực!” Giờ
đây lại xuất hiện cảnh nông dân cầm cố
ruộng đất mà họ được phép sử
dụng để đi làm thuê làm mướn hoặc
đi tha phương cầu thực, các nhà khoa học xă
hội gọi đó là “t́nh trạng ly nông”. Giờ đây
xuất hiện thêm một lớp người “mới” có
tên gọi là “dân oan”, tức là gần một triệu nông
dân và người lao động bị chiếm
đoạt đất đai, bị cướp
đoạt nhà cửa đi “kêu oan”, thậm chí đi
biểu t́nh, ở các “cửa quan” Cộng sản hàng
chục năm trời mà vẫn “không đi đến
đâu cả”! Giờ đây c̣n xuất hiện thêm
những cảnh tượng nhục nhă chưa từng
thấy trong lịch sử nước nhà: “nhà nước
xă hội chủ nghĩa” đem trên nửa triệu nam
nữ nông dân, lao động “xuất khẩu” ra
nước ngoài bán cơ bắp, mồ hôi, nước
mắt và cả máu nữa để nhà nước thu
về hàng nhiều triệu đô la (5); “nhà nước xă
hội chủ nghĩa” cho phép các dịch vụ “buôn
người” dưới dạng “lấy chồng ngoại
quốc” đưa hàng mấy trăm ngàn cô gái nông thôn v́
nghèo đói phải bỏ mẹ cha, bỏ anh chị em,
bỏ quê hương làng xóm để… bán ḿnh cho các “ông…
chồng” Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc…, thực
chất là đi làm nô lệ, kể cả nô lệ t́nh
dục! (6) Nhiều nhà nghiên cứu và nhà báo trung thực
trong nước đă mô tả cuộc sống của
người nông dân Việt Nam ngày nay c̣n lầm than, khổ
ải hơn hồi trước “cách mạng”, hơn
trước ngày “thống nhất đất nước”!
Đó là sự thật hết sức phũ phàng mà nông dân
Việt Nam đang phải ngậm đắng nuốt cay
cúi đầu chịu đựng!
CCRĐ
“long trời lở đất” như vậy, một
sự kiện lịch sử lớn lao như vậy,
thế mà đă trên nửa thế kỷ qua, chưa có
một công tŕnh nghiên cứu chân thật, khách quan nào của
các nhà khoa học trong nước được công
bố! Chưa có một tác phẩm nghệ thuật,
văn chương nào của các nhạc sĩ, họa
sĩ, nhà điêu khắc, nhà văn, nhà thơ… trong
nước diễn tả lại tấn thảm kịch
đầy đau thương của Dân Tộc! Chẳng
phải v́ giới trí thức sáng tạo nước ta
thiếu người có tài, có tâm, mà chỉ v́ ngay sau CCRĐ
các “lănh tụ” Cộng sản đă coi đó là một trong
những đề tài cấm kỵ không ai được
đụng đến. Cái tabou khắc nghiệt này th́
đám quan chức của chế độ cực
quyền ngày đêm canh giữ nghiêm ngặt măi cho
đến ngày nay!
Hồi
đầu cuộc “đổi mới”, cuốn “Ác
Mộng” của Ngô Ngọc Bội chỉ mới dám
lướt nhẹ qua chuyện “cải cách”… Măi đến
gần đây, đầu thế kỷ 21, mới lác
đác xuất hiện vài cuốn tiểu thuyết
đề cập thẳng đến đề tài cấm
kỵ đó. Cuốn “Ba Người Khác” của Tô Hoài, hoàn
thành từ năm 1992 nhưng chật vật măi đến
năm 2006 mới được xuất bản. Cuốn
“Nước Mắt Một Thời” của Nguyễn Khoa
Đăng sắp xuất bản th́ bị cấm ngay
tức th́ và cuốn “Thời Của Thánh Thần” của
Hoàng Minh Tường vừa in xong, chưa kịp phát hành
th́ số sách in đă bị Đảng ra lệnh thu
hồi để nghiền làm bột giấy!! Một hành
động man rợ, phản văn hoá của bọn
Tần Thủy Hoàng thời nay!
Người
viết những ḍng này đă phải sống suốt quăng
thời gian “long trời lở đất” rất kinh hoàng,
đầy bi thương, đầy máu lệ, đầy
chết chóc, đầy tàn phá, đầy “lừa dối
cuồng điên”... Đă nhiều lần dự hội
nghị về CCRĐ, được nghe “Bác Hồ vĩ
đại” và “Anh Cả Trường Chinh” huấn thị
về “CCRĐ”, “Chỉnh đốn Tổ chức”,
về “phóng tay phát động quần chúng”... Đă
từng chứng kiến nhiều cuộc đấu
“địa chủ cường hào ác bá” ở Bắc Ninh,
Hưng Yên, Hà Đông. Cũng đă từng đi làm nửa
đợt “cải cách” ở Thái B́nh, giữa chừng th́
Thành uỷ xin về Hà Nội để nhận trách
nhiệm lănh đạo công tác “sửa sai cải cách” ở
Ngoại Thành Hà Nội. CCRĐ quả là một cú
đẩy mạnh làm người viết thức tỉnh,
đánh giá lại Đảng Cộng Sản và các “lănh
tụ” của Đảng, cũng như nh́n lại con
đường ḿnh đă đi… Đó là khởi
đầu cho một quá tŕnh đấu tranh, dằn
vặt, đau đớn để có được
một nhăn quan mới, tư duy mới, cuối cùng dẫn
đến việc rời bỏ Đảng Cộng
Sản. Chính v́ thế, người viết biết rơ
nỗi đau khổ của bà con nông dân, vô cùng thông cảm
với các nạn nhân của CCRĐ và nóng ḷng mong mỏi
được thấy những tác phẩm văn học
nghệ thuật chân thật mô tả về sự kiện
lịch sử đau thương này.
Thế
rồi, hồi năm 1996, tôi đặc biệt cảm
động khi lần đầu tiên được
cầm trong tay tập copy bản thảo tiểu thuyết
“Ba Người Khác” của Tô Hoài. Tôi thầm cảm ơn
nhà văn Tô Hoài đă giáng một đ̣n mạnh vào cái tabou
kỳ quái của Đảng để hé ra cho độc
giả biết được phần nào sự thật
về Cải cách RĐ. Ông là nhà văn lăo thành có tên
tuổi ở nước ta nên cái gương sáng của
ông sẽ cổ vũ nhiều người khác noi theo.
Đọc
xong, tôi đưa “Ba Người Khác” cho một ông bạn
già xem. Ông ta đọc kỹ lắm rồi gặp tôi, ông
bực bội phán: “Viết về CCRĐ mà Tô Hoài chỉ kể
về ba thằng Đội ba lăng nhăng ấy th́
không được! Phải nói đến “Ba Người
Khác” cơ!” Tôi hỏi lại: “Là ai?” Ông đáp: “Ai nữa?
Là Bác Hồ vĩ đại, Bác Mao cũng vĩ
đại và Cụ Xít càng vĩ đại! Chính ba ông
đầu nậu ấy đă bày ra cái chuyện “cải
cách” ở nước ta”. Tôi nói: “Anh nói cũng đúng thôi!
Không có Cụ Hồ và Đảng Cộng Sản, và Cụ
Hồ không đi xin “chỉ thị” Cụ Xít, không xin phép
Cụ Mao cho rước đoàn cố vấn Tàu sang th́
chẳng có chuyện “cải cách” khủng khiếp này”. Anh
ta hăng lên: “Đó là nói hàng trên. C̣n dưới một
bậc th́ “Ba Người Khác” là “Anh Thận” (Trường
Chinh), sau đổi là Năm để nhún nhường
đứng sau Ba Duẩn, rồi đến thằng cha
Hồ Viết Thắng và “Anh Lành” (Tố Hữu) “nhưng
dạ chẳng lành” (7). Tôi hỏi: “Tố Hữu th́ có liên
quan ǵ đến? Lăo ta không có chân trong Uỷ ban CCRĐ Trung
ương mà”. Anh ta đáp: “Thế anh không biết à, y là
kẻ “gác cổng” tư tưởng của Đảng
ta. Y phụ trách công tác tuyên truyền cho chiến dịch
“cải cách” đấy. Chính y đă đánh tơi bời
Trần Bá Xá chỉ v́ cái truyện ngắn chân thật “Anh
C̣ Lấm” đăng trên tạp chí “Tổ Quốc” hồi
tháng 1 năm 1956, y buộc cho tác giả những tội
“chết người”, như có tư tưởng phản
động của giai cấp địa chủ, chống
phá chính sách CCRĐ! Ban biên tập “Tổ Quốc” cũng
điêu đứng v́ y. Rồi đến khi Hà Minh Tuân cho
ra cuốn “Vào Đời” có đụng chi mấy
đến chuyện “cải cách” đâu mà y và lăo (Nguyễn
Chí) Thanh xúm vào đánh cho tơi bời, kỷ luật tùm
lum. Cũng chính y đă tung ra những câu thơ sặc mùi
đao phủ để kích thêm đầu óc hiếu sát
của các Đội cải cách. Anh c̣n nhớ không?”
Rồi anh ta đọc vanh vách:
“Giết, giết nữa, bàn tay
không phút nghỉ,
Cho ruộng
đồng lúa tốt, thuế (8) mau xong,
Cho Đảng bền
lâu, cùng rập bước chung ḷng,
Thờ Mao Chủ
tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt”…
Chuyện
phiếm đàm của hai ông bạn già chúng tôi c̣n dài.
Nhưng, nói chuyện nghiêm chỉnh th́ phải công nhận
là Tô Hoài đă bất chấp tabou, đề cập
đến một đề tài “rất nhạy cảm”, và
với văn tài của ḿnh ông đă tạo nên một
cuốn tiểu thuyết khá hấp dẫn. Ông đă
vẽ lên rất rơ nét h́nh ảnh ba “anh Đội” cải
cách – đội trưởng Cự, đội phó Bối
kiêm chánh án và một cán bộ Đội tên Đ́nh. Cả
ba gă này mỗi tên một vẻ nhưng đều có tính
lưu manh, đều hám quyền lực, đều
dối trá, ham gái, dâm đăng và không gờm tay trước
tội ác. Tác giả đă mô tả rất “ấn
tượng” những cảnh hoang dâm, quần dâm của ba
“anh Đội” với các cô “rễ chuỗi” bần
cố, với các nàng dân quân… tạo nên một cảm giác
tởm lợm của người đọc đối
với mấy tên này. Tuy nhiên, người đọc tinh ư
thấy rơ rằng Tô Hoài dù đă đụng đến
đề tài CCRĐ nhưng lại tránh né, không dám phơi
bày thực chất và nguồn cơn tấn thảm
kịch của Dân Tộc đă diễn ra trong lịch
sử. Độc giả chờ đợi rất
nhiều ở một nhà văn có tầm cỡ như Tô
Hoài, nhà văn đă từng tham gia hai đợt CCRĐ,
làm đội phó lại kiêm chánh án Đội cải cách,
họ hy vọng được thấy từ ng̣i bút
của ông hiện lên một bức tranh toàn cảnh
đồ sộ, chân thật về cuộc đảo
lộn khủng khiếp này. Nhưng, đọc xong “Ba
Người Khác”, độc giả vẫn chưa thấy
được toàn bộ sự thật, “sự thật
trần truồng” không che đậy. Người
đọc bàng hoàng nghĩ rằng lẽ nào chỉ v́ ba cái
thằng khốn nạn này mà mọi sự trong xă hội
dưới thời “dân chủ cộng hoà” lại
đảo lộn tùng phèo đến như thế ư?
Thế th́ ai cho chúng nó cái quyền “nhất Đội nh́ Trời”
để chúng nó tác oai tác quái làm những chuyện “long
trời lở đất” như vậy? Ai đă vạch
đường chỉ lối cho chúng, ai đă “phóng tay” cho
chúng làm “cách mạng long trời lở đất”, làm
loạn xị cả một vùng nông thôn như vậy? Ai
đă đă kích động chúng “Giết, giết nữa,
bàn tay không phút nghỉ” để cho chúng thẳng tay tàn sát
dân lành không chút xót thương? Ai? Ai?? Nhiều người
cho rằng Tô Hoài là đảng viên Cộng sản, một
cán bộ quan trọng của Đảng trong lĩnh
vực văn học, một nhà văn-con cưng của
chế độ, ông muốn sống “tṛn” với
Đảng nên dù có đề cập đến CCRĐ,
nhưng ông đă hết sức gượng nhẹ, cố
lái câu chuyện sang một hướng khác. Đoạn
kết của tiểu thuyết, tác giả “cho” Đội
trưởng Cự chạy vào Nam đầu hàng
địch và bị “quân ta” giết… th́ càng làm cho
người đọc lạc hướng hơn nữa,
dường như “Mỹ Nguỵ” có dính líu ǵ đến
những chuyện xấu xa, những điều man
rợ, những đảo lộn xă hội khủng khiếp
hồi CCRĐ. Cố nhiên, cách kết cấu cốt
truyện, hư cấu t́nh tiết là quyền của tác
giả, nhưng độc giả có quyền đ̣i
hỏi tác giả phải làm sáng tỏ sự thật
của những tội ác tày trời.
Cuốn
“Nước Mắt Một Thời” của Nguyễn Khoa
Đăng và cuốn “Thời Của Thánh Thần” của
Hoàng Minh Tường tôi cũng được đọc
khá sớm bản photocopy từ trong nước gửi ra.
Sau đó ít lâu, một người bạn thân trong
nước gửi cho cuốn “Thời Của Thánh
Thần” c̣n thơm mùi mực. Đó là một trong những
cuốn may mắn “lọt lưới” thu hồi của
nhà nước!
Điều
đáng nêu lên ở đây là cả hai nhà văn Nguyễn
Khoa Đăng và Hoàng Minh Tường đều rất can
đảm “xông xáo” vào đề tài cấm kỵ này.
Họ không ngần ngại mô tả rơ nét thảm cảnh
kinh hoàng của nông thôn trong thời kỳ “cải cách”. Tuy
nhiên, độc giả vẫn cảm thấy đôi
chỗ c̣n gượng nhẹ, tránh né, dè dặt, mà đó là
điều dễ hiểu, v́ các tác giả đang sống
dưới chế độ cực quyền khắc
nghiệt, lưỡi gươm “chuyên chính” luôn luôn lơ
lửng trên đầu… Hơn nữa, những ai đă
từng sống trong thời kỳ “cách mạng long
trời lở đất” cũng dễ nhận thấy là
hai tác giả chủ yếu chỉ được nghe
kể lại những cảnh khủng khiếp thời
“cải cách” chứ chưa thật sự sống trong
đó, nên có những chỗ phản ánh không thật sát
thực tế, dùng lời ăn tiếng nói không phải
thuộc về thời ấy. Riêng Hoàng Minh Tường c̣n
đi xa hơn thời “cải cách”, ông đă mở
rộng khung cảnh xă hội ra cả giai đoạn sau
này, muốn giúp độc giả thấy rơ tính liên tục
của cả một thời đại lịch sử.
Đó là một ư định rất tốt, nhưng v́
mở rộng quá nên phần sau của tiểu thuyết
“Thời Của Thánh Thần” hơi bị loăng.
C̣n tiểu
thuyết sắp ra mắt người đọc nay mai,
cuốn “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” của
Trần Thế Nhân mà tôi vừa được xem bản
thảo mới từ trong nước “vượt biên” ra
ngoài th́ chủ yếu tập trung phản ánh cuộc
CCRĐ ở một vùng thuộc tỉnh Thanh Hoá. Nhưng
qua những màn “cải cách”, qua chuyện kể của các
nhân vật, đôi lúc tác giả cũng nhẹ nhàng
đụng đến những chuyện về sau,
chuyện “hậu cải cách”.
Tác
giả là một người đă sống trong cuộc,
cảm nhận sâu sắc nỗi đau của nhân dân và
dũng cảm phơi bày sự thật kinh hoàng trên
những trang viết. Tôi vốn là “dân” Khu Bốn (9), có
dịp qua lại, quen biết vùng được mô tả
trong truyện, biết rơ các “vị” mà dân địa
phương coi là “hung thần cải cách”, như Hồ
Viết Thắng, Đặng Thí, Chu Văn Biên… Ngay cả
vài nạn nhân trong truyện tôi cũng đă từng nghe
tên, v́ tác giả giữ tên thật. C̣n một số nhân
vật khác tôi hơi ngờ ngợ là ḿnh đă nghe đâu
đấy, có lẽ v́ lư do tế nhị nào đó tác
giả đă đổi tên chút ít chăng. Cho nên tôi rất
xúc động khi đọc những trang viết
đượm đầy nước mắt trong “Ngày Long
Trời Đêm Lở Đất”. Tôi có thể khẳng
định rằng cuốn tiểu thuyết này của nhà
văn Trần Thế Nhân đă dựa trên “người
thật việc thật” mô tả sự kiện kinh hoàng
đúng như nó đă diễn ra, không chút dè dặt, e
ngại, không chút gượng nhẹ. Có thể độc
giả trẻ tuổi ngày nay khi đọc nhiều
cảnh tượng hết sức lạ lùng, kỳ
dị, quái đản, rùng rợn quá sức tưởng
tượng, th́ không thể nào hiểu nổi làm sao trong cuộc
sống đă có thể diễn ra những điều
như thế được, đâm ra nghi ngờ tính chân
thật của truyện. Nhưng, than ôi, những
chuyện quái đản như thế hồi đó
thật sự đă diễn ra và diễn ra ở nhiều
nơi!
Cố
nhiên, đă là tiểu thuyết th́ tác giả phải hư
cấu. Điều hư cấu nổi bật nhất là
Trần Thế Nhân đă dùng “những người âm”
của thế giới Bên Ấy để kể chuyện
thật, rất thật của thế giới Bên Này. Tác
giả dùng lối hư cấu đó v́… “Chết thật
rồi/ mới dám nói/ Và Nói Thật!” (Khúc Dạo
Đầu). Lối hư cấu này gần với tín
ngưỡng dân gian, gần với đạo Phật,
dễ được đại chúng chấp nhận. Có
lẽ lối hư cấu này cũng không xa khoa học
lắm khi gần đây các nhà vật lư học hiện
đại đă phát hiện ra “vật chất đen”…
Nhưng, điều quan trọng đáng nói là tác giả
sử dụng lối hư cấu này thật nhuần nhuyễn
đến mức người đọc thấy mọi
sự kiện, mọi t́nh tiết trôi chảy rất
tự nhiên, và câu chuyện rất đau thương
lại cuốn hút mạnh tâm trí người đọc
từ đầu đến cuối sách. Chính nhờ
lối hư cấu này tác giả đă mô tả
được rất chân thật nội tâm các nạn nhân
của những “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất”
nửa thế kỷ trước. Trong một lá thư
gửi bạn, tác giả tâm sự: khi viết tiểu
thuyết này, tác giả có cảm giác rất thật
rằng mọi lời nói, mọi sự kiện… trong tác
phẩm là do chính người âm đồng hành, nhập vào
tác giả mà kể lại.
Đọc
“Ngày Long Trời Đêm Lở Đất”, tôi cảm
nhận rằng Trần Thế Nhân đă thực hiện
đúng thiên chức cao quư của người cầm bút
để không tự nhốt ḿnh trong cái “chuồng văn”
tù túng, ngột ngạt với đủ loại ư thức
hệ Mác-Lê, đảng tính, chủ nghĩa hiện
thực xă hội chủ nghĩa… vớ vẩn, nhảm
nhí, không tự ép ḿnh phải đi theo “lề phải”
của kẻ cầm quyền, ông mới có thể sáng
tạo nên một thiên tiểu thuyết – nói theo từ
ngữ thời thượng trong nước – sáng giá
như vậy. Sáng giá cả về tính chân thật, cả
về mặt văn chương.
Bút pháp
của tác giả b́nh dị mà táo bạo, trầm tĩnh,
nhẹ nhàng mà da diết, xoáy sâu vào ḷng người
đọc. Lối viết h́nh ảnh, bóng bẩy, ẩn
dụ đôi khi xen vào những triết lư sâu xa. Giọng
văn hóm hỉnh, châm biếm, hài hước, trào lộng
gây hứng thú dù bức tranh toàn cảnh thật vô cùng
ảm đạm.
Có
những câu nói thật thà, thơ ngây của nhân vật
lại rất thâm thuư, nêu lên được thực
chất của những vấn đề lớn. Chẳng
hạn, câu nói mộc mạc của Thùy Dương,
một nhân vật nữ: “Ông chồng yêu quư của em có
lần bảo Bác Mao viết kịch bản. Nhà Hát
tuồng Thiên An Môn diễn trước, rồi đưa
sang Ba Đ́nh Hà Nội… Ta cứ thế mà làm theo Tàu…”. Suy
cho cùng, câu nói đó phản ánh sự thật nửa
thế kỷ trước và cả sự thật ngày nay,
và cả những ǵ rất đắng cay cho Đất
Nước, cho Dân Tộc ta nằm đằng sau sự thật
khốn nạn đó nữa! Đúng thế, như chúng ta
đều biết, chính sự thần phục, quỵ
luỵ đớn hèn và sự lệ thuộc nhục nhă
của kẻ cầm quyền CS đối với “Thiên
triều Đỏ” nửa thế kỷ trước và
cả ngày nay đă gây cho Đất Nước ta biết
bao tai ách, kể cả việc mất đất, mất
biển, và hiện đang đặt Dân Tộc ta
trước hiểm họa mất nước rành rành!!
Cái nh́n
của tác giả đối với nông dân trong truyện
rất công bằng: trong khi mô tả những “rễ
chuỗi” gọi là “bần cố” có tính lưu manh, tham lam,
độc ác, vô ơn vô ngh́, gieo oan giá họa cho
người ngay, ông lại đưa lên h́nh ảnh
những người nông dân hiền lành bị Đội
ép buộc phải miễn cưỡng “tố điêu”
ở “đấu trường” theo lời mớm của
Đội, nhưng sau lưng Đội họ vẫn lén
lút, thầm lặng giúp đỡ cho người bị
oan. Hồi đó mà dám làm như vậy th́ thật là
liều lĩnh, nhưng lương tâm thôi thúc họ
phải hành động theo tính người, theo t́nh
người, bất chấp hiểm nguy.
Khác
với mấy cuốn tiểu thuyết viết về
CCRĐ mà nhiều người đă biết, như “Ba
Người Khác” của Tô Hoài, “Nước Mắt Một
Thời” của Nguyễn Khoa Đăng, “Thời Của
Thánh Thần” của Hoàng Minh Tường, cuốn “Ngày Long
Trời Đêm Lở Đất” của Trần Thế
Nhân không chỉ phơi bày rất rơ nét những tội ác tày
trời trong CCRĐ, mà c̣n khéo léo vẽ lên bằng những
đường nét ẩn dụ để người
đọc tinh ư có thể liên tưởng nhận ra
được bộ mặt thật của những
thủ phạm chính đă gây ra tội ác.
Nhà văn
mở đầu thiên tiểu thuyết của ḿnh bằng
mấy chương kể lại câu chuyện bi thảm
của nàng cung phi thời xưa. Nhưng chuyện xưa
lại phảng phất bóng dáng một nàng “cung nữ”
thời nay - thời “dân chủ cộng hoà” - cùng với
“Đức Vua” và viên “Thượng Thư” đầy
quyền lực cũng thời nay… Hoá ra, “khúc cung oán”
thời nay lại ngậm ngùi, ai oán, bi thương, thê
thảm hơn nhiều so với “Cung oán Ngâm Khúc” thời
cụ Ôn Như Hầu Ng. Gia Thiều! Lối mở
đầu như vậy làm người đọc cảm
thấy dường như tấn thảm kịch
đầy máu lệ của một con người bé
nhỏ, yếu ớt lại mở đầu cho cả
một loạt thảm kịch triền miên của nhân dân…
Chẳng
phải ngẫu nhiên mà trong truyện tác giả đă nói rơ
tuổi tác của “Đức Vua” «triều
nhà Nguyễn»: «Năm
ấy Người đă 66 xuân». Nếu lấy năm
1955 là năm xảy ra cuộc CCRĐ
ở huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá để tính, th́ năm sinh của “Đức
Vua” thời nay nhằm đúng vào
năm 1890. Một chi tiết khác – «Sáu năm trước, Triều đ́nh đă
xử chém ngang lưng một viên quan tổng kho. Dẫu y
là công thần, đă từng theo gót chân Thiên Tử xông pha nơi lam chướng ngàn trùng, vào
ra trong máu lửa, tên khuyển nho đầy tớ
hoang dâm vô độ này đă biển thủ công quỹ và
xài phí tài sản vương quốc để cung phụng
tiệc cưới xa hoa của
hắn….» – hoàn toàn ăn
khớp với sự kiện ngày 5 tháng 9 năm 1950, viên
Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng
Cục quân nhu của Quân đội Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà bị xử tử theo lệnh của “Đức
Vua”, v́ tên này đă phạm tội tham ô lăng
phí, lấy của công để tổ chức đám
cưới xa hoa của y. Vụ án này xảy ra đúng sáu
năm trước cuộc CCRĐ ở Thanh Hoá
hồi năm 1955 mà tác giả
đă mô tả.
Giọng
lưỡi của “Đức Vua” «triều
nhà Nguyễn» nói về ḿnh với nàng cung nữ – “Ḷng Trẫm nặng một
nỗi thương đau. Khanh có biết chăng? Trẫm
thương những con dân cơm chưa đủ no, áo
chưa đủ ấm, bầy
trẻ lớn lên chưa được cắp sách tới
trường… Đất nước ngàn năm loạn
lạc chinh chiến; may Trời cho c̣n lại được
ít ngày thái b́nh yên vui… Vậy mà nay ngoại bang quay
trở lại xâm chiếm, cắt chia. Chiến tranh
lại tiếp nối chiến tranh. Nghe tiếng suối
khóc, lắng tiếng gió than, ḷng Trẫm càng năo nề xót
xa. Trăng càng sáng, nước non xinh đẹp càng tang
thương, ḷng Trẫm càng nặng nỗi lo cho dân, chua
xót niềm đau cho xứ sở. Trẫm làm sao nhắm mắt ngủ yên?...” – sao mà giông giống giọng văn
trong «Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt
Động… » của… Trần Dân Tiên đến thế!
Đó
là vài chi tiết về “Đức Vua”. C̣n về nàng
cung nữ thời xưa th́ những nét chấm phá rất
nhỏ, như «cái áo màu xanh
chàm kiểu bà ba không có túi, cái váy dệt thổ cẩm dài
sát đất», «vẻ
đẹp sơn dă thâm u», «giọng
nói của đàn bà phương Bắc»… làm người đọc dễ
nhận ra đây chính là cô thôn nữ miền núi, một
đoá hoa rừng Việt Bắc,
thậm chí người am hiểu có thể đoán
được cả họ tên cô «cung nữ» bất
hạnh thời nay. Ngay cả cái kết cục đầy
bi thương của nàng trong truyện không thể không làm
cho ta liên tưởng đến cái chết tức
tưởi đầy oan nghiệt của người
«cung nữ» thời «dân chủ cộng hoà» mà cô em của
nàng đă kể lại cho người chồng chưa
cưới của cô…
Người
viết những ḍng này cảm thấy dường như những chữ, những câu sau
đây trong truyện cũng nhắm vào một hay những
đối tượng cụ thể nào đó: …“Tội
ác bọn Quỷ Thần ṿi vọi/chồng chất
đỉnh Muôn Năm!”...“Những cái ǵ trái phản với
Tự Nhiên/dù bay có cố công vẽ tô xây đắp/thành
đầu lâu Núi Tháp/rồi cũng có ngày ră tan đổ
sập!/Chỉ cần nỗi oan khốc của một
người đàn bà/ngây thơ chân thật/cũng
đủ góp phần vào tiêu tan cả Ác Nghiệp/của
một Quỷ Vương Chí Linh Chí Thánh Chí Thần!” (Khúc
Dạo Đầu),… hay… «Im
lặng. Bỗng nhiên họ nghe tiếng ai đó vọng
lên: “Đời là sân khấu của những tấn
bi hài kịch. Bốn ngàn năm
lịch sử, cái người đóng kịch tài ba
điệu nghệ nhất là ai các con có biết không?
Nó kia ḱa! Các con không thấy sao? Khi phải
cười, nó cười; lúc cần khóc, nó khóc. Cứ y
như thật. Và sân khấu ngập tràn máu,
nước mắt. Nó là người, chỉ là
người thôi. Vậy mà ma xui
quỷ khiến thế nào, ai cũng coi nó là Chí Thần, Chí
Thánh?...” (Chương 5)… hay
lời của Thùy Dương nói với Mai Duy Vỹ:
«Bác ơi! Hồi c̣n ở Bên Này, dẫu nhiều khi
sống lăng nhăng bậy bạ, cháu vẫn ăn nói
thật ḷng không chút giả trá. Chị Uyên không am hiểu
đời sống xă hội bằng cháu đâu. Cháu
biết rơ, cái lũ tự phong ta đây là thần thánh,
chẳng có đứa nào đáng được gọi là
người, toàn một bọn chó má, quỷ sứ,
đồ ba que xỏ lá cả!» (Chương 45).
Đặc
biệt là tác giả đă giành cả chương 41
để mô tả cuộc hội ngộ kỳ lạ
như trong giấc mơ của Mai Duy Vỹ, người
tử tù của cuộc CCRĐ, với «Hoàng Thượng
ngự trên Ngai Rồng Đỏ» : «Muôn tâu Bệ hạ!...» - «Ta không phải là Vua,
chẳng phải Tổng Thống… Ta là Đấng Chí Tôn, Chí Linh, Chí Thánh, Chí Thần, Chí…
(Đức Vua kịp dừng lại, suưt nữa th́
Người nói thêm một chữ có thể làm lộ ḿnh ra
– người viết ghi thêm). Ta đây! Ta là người nô
bộc trung thành của muôn dân. Hăy nghe và trả lời
những câu hỏi của ta!»
Và
cuộc đối thoại bắt đầu giữa Mai Duy Vỹ, người
tử tù, với «Đấng Chí Tôn». Sau khi buộc tội
cho Mai Duy Vỹ «Mi là thằng
địa chủ phản động, bán nước
hại dân… » và bị người tử tù này khéo léo, lễ phép phản bác lại,
cuối cùng «Đấng Chí Tôn» đuối lư đă
phải nói: «…Ta biết anh vô tội, ḷng anh trong trắng.
Nhưng… ta không thể cứu anh được. Mà cho dù ta
có muốn cứu anh, ban lệnh xuống th́ đă chắc
ǵ quần chúng nhân dân người ta nghe cho? Cải cở
thủ ti - CCRĐ là cuộc Cách mạng lớn nhất
trong lịch sử đấu tranh giai cấp của dân
tộc, mang tầm cỡ nhân loại… Trong cơn trời
long đất lở này, sóng thần Cách mạng đang ào
ào dâng cao, cuộn tới, bánh xe lịch sử đang
lăn đi... Ai người
bị cuốn trôi, nghiến nát âu cũng là lẽ
thường t́nh. Miễn sao Cách mạng Thế giới
đạt được thắng lợi cuối cùng!
(Chữ đậm do người viết nhấn
mạnh). Có một
người phụ nữ ḷng dạ c̣n trong trắng
tốt đẹp hơn anh, c̣n đáng thương,
đáng quư hơn anh ở cách đây không xa lắm… Một người đàn
bà! Ta đau ḷng nhắc lại: Một người đàn
bà! (Ư nói bà Nguyễn Thị Năm chăng ?! –
người viết ghi thêm) Anh
đă nghe rơ chưa? Vậy mà ta cũng không cứu
được! Mong anh thông
cảm cho ta… »
Nói xong,
«Đấng Chí Tôn vụt biến. Trong mây mù c̣n vọng
lại tiếng sấm rền xa xa : Ta... không… thể… cứu anh được!»…
Đoạn
trích trên đây nêu bật ư đồ sâu xa của
Đảng Cộng sản khi làm CCRĐ không phải
để cho «người cày có ruộng» mà chính là
để chủ nghĩa Cộng sản thắng lợi
trên toàn Thế giới, đồng thời nó vạch trần
cái nhẫn tâm, ḷng tàn ác cũng như sự dối trá
của các «lănh tụ» Cộng sản.
Có
thể nói, trong văn chương đương
đại thật là hiếm thấy ở các văn
nghệ sĩ trong nước ta cái thái độ dũng
cảm, thẳng thắn phê phán như vậy đối
với kẻ cầm quyền toàn trị.
*
Xin nói thêm
rằng, trong thư gửi bạn, tác giả cho biết
cuốn tiểu thuyết “Ngày Long Trời Đêm Lở
Đất” đă được h́nh thành cách đây 10
năm, được tác giả chỉnh sửa nhiều
lần, nay coi như đă xong. V́ lường trước
được rằng khó có một nhà xuất bản nào
ở Việt Nam nhận in tác phẩm này mà không phải
gánh chịu những rủi ro, nên tác giả đă có ư
định “bỏ tủ khoá lại”. Nhưng, sau khi
vượt qua nỗi sợ chính ḿnh, lại gặp
được “thiện duyên”, tác giả đă quyết
định cho “đứa con tinh thần” của ḿnh
xuất ngoại t́m đường tự do để
kể lại cho đồng bào trong và ngoài nước,
cũng như cho toàn Nhân Loại biết những chuyện
hăi hùng, khủng khiếp khôn cùng, những đau
thương, khổ nhục ê chề nơi Địa
Ngục trần gian mà người dân Việt Nam đă và
đang chịu đựng.
Cũng có
thể ai đó nghĩ rằng chuyện CCRĐ xảy ra
đă hơn nửa thế kỷ rồi, kể lại làm
chi cho thêm đau ḷng, nên quên đi th́ hơn. C̣n tập
đoàn Cộng sản cầm quyền đương thời
th́ luôn miệng hô hào nhân dân “quên quá khứ, hướng
tới tương lại”. Đó là một thủ
đoạn bịp bợm, một chính sách ngu dân thực thụ
của kẻ cầm quyền xảo quyệt. V́ một
dân tộc quên quá khứ th́ không bao giờ có tương lai
tốt đẹp cả!
Vả
lại, quên làm sao được khi nỗi oan khốc
của hàng triệu con người không hề
được giải toả, nó ngấm sâu vào tiềm
thức của Dân Tộc đă trên nửa thế kỷ
rồi? Quên làm sao được khi những thủ
phạm chính gây ra tội ác không bị đưa ra ánh sáng,
khi cái Đảng gây ra tội ác không bị vạch
trần, và Đảng ấy lại không hề sám hối
và thề sẽ không tái phạm nữa? Quên làm sao
được khi ngày nay giữa thanh thiên bạch nhật
tập đoàn Cộng sản cầm quyền vẫn ngang
nhiên tiếp tục dùng những thủ đoạn tàn
bạo thời CCRĐ để đối xử với
nhân dân? Những vụ cướp đoạt ruộng
đất, nhà cửa trắng trợn, những cuộc
“đấu tố” các nhà dân chủ ở phường,
ở làng, những cuộc “làm việc” của công an
với tính cách sách nhiễu, nhục mạ, hành hạ
đối với các nhà trí thức dân chủ bất
đồng chính kiến, việc sử dụng bọn
cặn bă xă hội, bọn “xă hội đen”, giống
như “rẽ chuỗi” hồi “cải cách”, để cùng
với công an “nhân dân” đánh đập dă man các nhà tu hành,
các giáo dân, Phật tử, tín đồ Hoà Hảo, Tin Lành,
Cao Đài, phá chùa, phá nhà thờ, đập nát Thánh giá, xúc
phạm tượng thờ, bao vây suốt ngày đêm nhà
cửa các chiến sĩ dân chủ không cho họ đi
lại làm ăn, bao vây kinh tế không cho họ sinh sống
b́nh thường, ném đồ dơ bẩn thối tha vào
nhà người dân… tất cả những chiêu thức
độc ác, đê tiện đó có khác chi thời CCRĐ?
Thậm chí, lối xét xử của các toà án “nhân dân” ngày nay
đối với các chiến sĩ dân chủ, đối
với thanh niên, trí thức yêu nước dám lên tiếng
bảo vệ chủ quyền của Tổ Quốc th́ có
khác chi lối xét xử của các toà án “nhân dân đặc
biệt” đối với các người bị quy là
“địa chủ, cường hào” hồi “cải cách”?
Vẫn cái lối buộc tội vu khống, oan uổng,
vẫn cái cách xử độc đoán, độc tài
của “quan” toà, cố t́nh trấn áp không cho bị cáo
được nói, thậm chí công nhiên bịt miệng
bị cáo trước toà, cái lối xử mà bắt bị
cáo chỉ được phép cúi đầu nhận
tội, không cho tranh căi, c̣n ai dám phản bác cáo trạng th́
“quan” toà hèn hạ trả thù bằng cách tăng mức án
thêm nhiều năm tù! Chính v́ thế chúng ta không có quyền
quên, mà phải nhớ, nhớ măi cái bài học đắng
cay của thời CCRĐ đă qua. Nhớ không phải
để trả thù ai mà để cho chính ḿnh bớt ngu dại,
bớt ngây thơ, để khôn thêm, cảnh giác hơn,
dũng cảm hơn và để không c̣n bị đánh
lừa, không c̣n bị đè đầu cưỡi cổ
nữa.
Tiểu
thuyết “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” chắc
sẽ giúp cho những ai đọc nó sẽ không quên mà
nhớ măi những ngày đen tối, khủng khiếp
của thời qua để tăng thêm nghị lực và
quyết tâm đấu tranh cho một tương lai
tươi sáng hơn, không c̣n bóng dáng những kẻ nhân
danh chủ thuyết này, chủ nghĩa nọ, tư
tưởng kia để đè nén, áp chế, hành hạ,
thậm chí giết hại dân lành.
Có thể
coi cuốn tiểu thuyết này là một đài
tưởng niệm không ǵ phá vỡ nổi, một nén tâm
hương thơm ngát của tác giả Trần Thế
Nhân thắp cho vong linh các nạn nhân của chế
độ Cộng sản cực quyền toàn trị ở
nước ta! Đài tưởng niệm và nén tâm
hương đó làm ấm ḷng người Bến Ấy
cũng như Bên Này!
Moskva, ngày 23 tháng 1
năm 2010,
nhân dịp kỷ
niệm Ngàn Năm Thăng Long
Viết thêm vài
đoạn ngày 31 tháng 5 năm 2010.
NGUYỄN
MINH CẦN
GHI CHÚ:
1/ Tại kỳ họp thứ ba của
Quốc Hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà khoá 1
(tháng 12 năm 1953), để thông qua Luật CCRĐ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dơng dạc khẳng
định một lần nữa khẩu hiệu
“người cày có ruộng” và tính chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp t́nh của cuộc CCRĐ. Ông nói: "Luật CCRĐ của ta chí nhân,
chí nghĩa, hợp lí hợp t́nh, chẳng những là làm cho
cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có
ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố
đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố
đồng bào địa chủ" (nguyên văn). Ngày nay, mọi
người đều thấy rơ lời nói của “lănh
tụ” Cộng sản kiêm Chủ tịch Nước khác nhau
một trời một vực so với thực tế và
việc làm của những người Cộng sản!
Thật đúng là “nói dzậy mà không phải dzậy”!
2/ Hồi đó, nông dân
chiếm đến trên 90% dân số của nước ta.
3/
Trong báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước
Quốc Hội đă nói rơ địa chủ chỉ có 5%
dân số mà chiếm phần lớn ruộng đất
ở nông thôn. V́ thế, trong CCRĐ, Đảng chính
thức quy định tỷ lệ địa chủ trong
dân số nông thôn là 5%. Tỷ lệ 5% đó dựa trên
cơ sở nào không ai biết, v́ hồi đó không hề
có một cuộc điều tra nào về t́nh h́nh kinh
tế, xă hội và ruộng đất ở miền
Bắc Việt Nam. Nhiều nhà phân tích cho rằng đó là
nhận định chủ quan của các “lănh tụ” Cộng sản theo kiểu volontarisme (duy
ư chí). Cái tỷ lệ 5% này đă gây ra biết bao oan
khốc cho người dân, v́ các Đội Cải cách
phải cố sức “đôn” nhiều người lên
“thành phần địa chủ” cho đủ số tỷ
lệ!
4/
Số liệu này trích từ bộ “Lịch Sử Kinh
Tế Việt Nam 1945-2000” gồm 3 tập, do Viện Kinh
tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội – xem
tập 2.
5/
Theo báo cáo Cục quản lư Lao động nước ngoài
của VN, năm 2008 có trên 500 ngàn người Việt
đang lao động tại hơn 30 nước trên
thế giới. Từ năm 2005, Đài Loan, Nhật
Bản, Hàn Quốc và Mă Lai bắt đầu nhận
người Việt “xuất khẩu lao động”. Báo
cáo c̣n cho biết trong vài năm tới, số lao
động “xuất khẩu” có thể sẽ tăng lên
đến một triệu.
6/
Theo tài liệu năm 2008 từ Văn pḥng Kinh tế
Văn hoá Đài Bắc tại Việt Nam, có khoảng 770
ngàn cô gái Việt Nam sang Đài Loan “làm… dâu”! Đáng chú ư là
trong số đó, phụ nữ miền Tây Nam Bộ
(vốn là vùng có cuộc sống trước năm 1975
tương đối sung túc) bị bán qua Đài Loan
chiếm tỷ lệ cao nhất so với các tỉnh thành
trong nước. Báo chí ở một vài nước sở
tại cho biết nhiều cô bị đánh
đập, bị bỏ đói, bị buộc phục
vụ sinh lư cho cả gia đ́nh hoặc bị bán cho các
“động” măi dâm. Một số cô không chịu
được nhục nhă đă tự tử, hoặc
phản ứng lại và bị đánh chết!
7/
“Anh Lành nhưng dạ chẳng lành” là một câu vè về
Tố Hữu lưu truyền trong giới văn nghệ
sĩ hồi ông ta c̣n sống, ám chỉ những vụ
đàn áp tàn nhẫn trí thức, văn nghệ sĩ
dưới thời ông.
8/
Ư nói thuế nông nghiệp là nguồn thu chính của chính
quyền, được áp dụng hồi đó (từ
năm 1951) ở nông thôn miền Bắc Việt Nam. Đây
cũng là một cơn ác mộng nữa đối
với nông dân, v́ thuế đánh theo lối lũy tiến,
nghĩa là thu hoạch được nhiều th́ phải
nộp thuế cao hơn gấp bội. Nếu không
nộp đủ thuế th́ người nông dân bị
đày đọa đủ cách, thậm chí bị bỏ
tù. Và nếu không muốn
bị ở tù th́ nông dân
đành phải mang trâu ḅ ra bán, hết trâu ḅ th́ phải bán
đến nữ trang, đồ vật trong nhà, thậm
chí cả những đồ tế tự trên bàn thờ,
v.v… để nộp thuế.
Những cuộc “b́nh diện tích” và “b́nh sản
lượng” nhằm tính số lượng thu hoạch
để định mức thuế chủ ruộng
phải nộp đều do các đảng viên Cộng
sản mớm cho các cốt cán bần cố nông “phát giác”
để tăng mức thuế lên và gán ép cho chủ
ruộng nhắm “đánh” vào lớp người hữu
sản ở nông thôn. Trong tác phẩm “Chuyện Làng Ngày
Ấy” (xuất bản năm 2006), nhà văn Vơ Văn
Trực đă mô tả rất rơ nét những cảnh
cưỡng bức trắng trợn nông dân đóng thuế
hồi đó.
9/
Liên khu Bốn hồi đó có sáu tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ
An, Hà Tĩnh, Quảng B́nh, Quảng Trị, Thừa
Thiên-Huế. Ba tỉnh phía Nam v́ hoàn cảnh bị
chiếm, hợp thành Phân khu B́nh Trị Thiên, ở trong Khu
Bốn.
TỘI
ĐỒ SỐ MỘT, THỦ PHẠM CHỦ YẾU
CỦA CẢI CÁCH
RUỘNG ĐẤT