TRẦN THẾ NHÂN

 

NGÀY LONG TRỜI

ĐÊM LỞ ĐẤT

Tiểu thuyết

Tập 2

 

 

Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam

09-2010

CHƯƠNG 25

MẸ CON NHÀ HỌ MAI ĂN THỊT NHỮNG

CON G̀, XƠI NHỮNG MÓN G̀?

 

        Lời mẹ nói quả không lầm, cũng chẳng sai.

        Để có thêm thịt bồi bổ cho mấy cơ thể đă giơ xương ḷi da, chúng con đào trùn, mổ ruột, rửa sạch nấu cháo. Thật kỳ lạ, ăn món này vào, cơn sốt hạ xuống, người thấy khoẻ hẳn.

        Lại c̣n một nguồn thực phẩm nữa bồi bổ cơ thể cũng rất tốt, ấy là bọn cóc nhái. Hồi ấy sao mà nhiều cóc nhái đến thế! Chẳng phải lùng t́m đâu xa, ngay trong lều, xó xỉnh, vại nước… Nhiều khi chỉ cần nhấc ḥn đá, lôi cái ḥm đựng áo quần giẻ rách ra… là đă có mấy chú ẩn nấp trong đó rồi. Cứ mỗi hôm mưa là Trời lại cung cấp, phân phối, bổ sung cho các nguồn thức ăn này: cóc nhảy ra sân, ếch nhái từ dưới ruộng ḅ lên… Hai chị em tha hồ mà bắt.

        Nhưng bắt được bọn này cũng không dễ đâu, thầy ạ. Nhiều con nhanh lắm, ḿnh vồ mấy lần cũng trượt; nó đă vọt lên trước, ḿnh chộp hụt, thế là ngă ngửa ra giữa sân. Ôm bụng thắt ruột mà cười!

        Có cái hố tăng-xê bác Lương đào để làm hầm tránh máy bay Pháp mấy năm trước, chẳng lấp lại nay vẫn c̣n đó. Cứ mỗi lần sau cơn mưa lại lỏng bỏng nước… Một hôm ngồi trên miệng hố con thấy có một con ếch đang thô lố mắt nh́n ḿnh dưới nước. Thịt ếch ngon hơn thịt cóc, thịt nhái; v́ thế con mới hạ quyết tâm, loay hoay t́m cách bắt cho kỳ được Chú của Ông Trời này…

        Thế là, vô ư sẩy chân, tụt ngă xuống. Nước trong hố lút đến mang tai; con cứ ngoi lên hụp xuống bám víu hai bên, định trèo lên nhưng miệng hố th́ rộng, đất hai bên sụt lở… Càng ngoi lên càng lún ch́m, sặc sụa mấy ngụm nước…

        Thật may cho con! Nghe tiếng rơi đánh bùm trong nhà mẹ đă ngờ ngợ. Lại thêm tiếng đất sụt, nước quẫy b́ bơm, mẹ càng sinh nghi. Thế là bà vội vàng ra ngay, chỉ cần chậm mười lăm phút nữa là con bé Lệ Uyên của thầy đă thành ma rồi!

        Lại nói chuyện làm thịt cóc, thịt Cậu Ông Trời… Chị Tâm c̣n gọi ếch là Chú Ông Trời. Mẹ gọi bọn nhái, chăo chuộc, ểnh ương là cháu bên ngoại, đằng nội của Ông Trời… gọi Trời bằng bác, bằng dượng… Bác Lương bày cho rất kỹ lưỡng. Bác dặn đi dặn lại là chặt đầu, lột da vứt đi, bỏ hết tim gan mật phổi, đừng tiếc cái ǵ hết, chỉ lấy bốn cái chân bóp muối, rửa sạch…

        Bác đe rằng, chỉ cần ăn một tí gan cóc, dính một chút mật cóc vào là nổ bụng ra chết tươi ngay!

        C̣n một món ăn rất ngon nữa là chuột.

        Thịt chuột ngon chẳng kém ǵ thịt gà, thịt chó. Chuyện là thế này thầy ạ. Có một hôm trời mưa, bác Lương đi thăm ruộng về, ghé vào lều cho chúng con mấy chú chuột đồng. Bác bảo, mổ bụng vứt hết gan ruột của chuột đi; nếu sợ không dám nướng ăn th́ om với măng hoặc khế cũng được… Thế nhưng, ngon nhất vẫn là nướng!

        Chúng con hỏi, thưa bác, thịt chuột trong nhà có ăn được không? Bác cười bảo, chắc cũng được thôi, có điều khi làm thịt và nấu phải cẩn thận hơn, bởi v́ bọn này sống gần người lây bẩn, tạp ăn, lắm khi ăn cả xác chết!

        Ngay sát bên chái nhà, cái lều ḿnh ở có một cây cau khô, chết đă từ lâu rồi mà sao nó vẫn không đổ, dù thân xác đă lỗ chỗ ruỗng mục? Trên đầu ngọn cau, chen vào giữa mấy cành khô lá héo đó có một ổ chuột. Đêm tối, nằm trong lều cứ nghe chúng kêu chít chít… Khi trời mưa, ngồi trong lều nh́n ra thấy có con leo lên, có con chạy xuống trông rất vui mắt. Chị Tâm mới nghĩ ra cách để tóm bắt bọn chuột này.

        Chị lục t́m mấy cái quần nâu của mẹ, cái nào cũng rách cả, chọn được một cái tuy có vá vài miếng nhưng không có lỗ thủng… Tốt quá rồi! Chị lấy lạt buộc sít hai ống quần lại đem úp trùm cả cái quần vào đầu ngọn cây cau… Chị bảo con đứng dưới cầm cái que dài chọc chọc, khua khua… Lũ chuột cùng đường bí lối, chạy lên chạy xuống đều không thoát, phải chui vào hai ống quần…

        Thiên la địa vơng! Lưới trời khôn thoát! Trên dưới đều buộc chặt! Thế là chúng con bắt tay vào, nghiến răng, bóp chết từng con một. Kể lại cho thầy nghe chuyện này bây giờ con vẫn thấy rùng ḿnh. Chẳng hiểu v́ sao mà lúc bấy giờ chúng con lại ác thế!

        Hay là, nói như mẹ, tại v́ người ta muốn ḿnh phải chết nên ḿnh quyết sống cho kỳ được bằng mọi cách, mọi giá đến nỗi chẳng c̣n sợ chết; và ham sống đến độ sẵn sàng ăn tươi nuốt sống tất cả những thứ ǵ đến miệng ḿnh!

        Có ai đời, cào cào, châu chấu, muỗm… bỏ vào nồi, đậy vung, đốt lửa rơm cháy… chúng nhảy rào rào một lúc rồi nghe im tiếng; vậy là chín tới, con gái thầy, hai chị em bốc lấy, thổi phù phù trên ḷng bàn tay, bỏ vào mồm nhai gau gáu!

        Có lần chúng con c̣n ăn cả dế mèn - “dế mèn phiêu lưu kư” ấy thầy ạ. Cũng ngon!

        Khoái nhất vẫn là hôm nào chộp được ếch, nhái, cá rô hay cà cuống. Thôi th́, c̣n phải nói ǵ nữa, hôm đó đời tươi vui như hoa hồng thắm!

        Cũng may là mẹ con nhà họ Mai bị Đội ghét nhưng Trời Phật vẫn c̣n thương. Dẫu rằng Đội và Quân Chủ lực có trăm tay, ngàn mắt, xương sắt da đồng… cũng chỉ có thể tóm bắt được người vô tội, chứ không giết hết muôn loài chim chóc, côn trùng, thảo mộc… Cho nên, vận may vẫn c̣n đến với ḿnh, mở ra con đường sống, giúp cho ḿnh thoát… chết!

        Mà ngay cả con người nữa, có những người không bị ma lôi quỷ ám, vẫn c̣n là người… th́ đối với ḿnh, họ vẫn cứ thương!

 

 

 

CHƯƠNG 26

TRỞ LẠI CHUYỆN… CON CHUỘT

 

        Trở lại chuyện… con chuột!

        Thầy ơi! Sau này ở Sài G̣n, có một dạo nhà con nhiều chuột quá. Đêm tới chúng cứ lục đục trên chạn bát đũa, rúc rích dưới sàn nhà, có con chạy vào cả giường nằm… không sao nhắm mắt nổi. Anh Thái Minh, chồng con, mới nhờ người ta mua hộ cho một cái lồng bẫy chuột làm bằng lưới sắt đan, bán ở các cửa hàng ngoài chợ Bà Chiểu.

        Một hôm, sáng dậy đă thấy con chuột bị sập bẫy, sa lưới nằm trong lồng. Chồng con bảo, để anh lấy phích nước sôi đổ xối cho nó chết rồi bỏ bịch ni lông đem quẳng ra thùng rác ngoài đường… Con nói, anh Minh, bây giờ anh mắc công chuyện ǵ th́ cứ đi đi, để em xử lư giải quyết vụ việc này cho.

        C̣n lại một ḿnh Lệ Uyên với con chuột ở trong bẫy đặt trên nền nhà. Con nh́n nó! Ồ con chuột đang độ tuổi thanh niên múp míp, mượt mà và ngoan ngoăn biết điều làm sao! Nó đang nh́n con bằng ánh mắt thăm ḍ ư tứ. Chít! Chít! Nó khẽ kêu. Chết! Chết! Mày có sợ chết không, hở chuột? Con chăm chú theo dơi vẻ tinh khôn mà dại dột của nó. Cô nh́n cái ǵ? Th́ tôi cũng mắt mũi, tay chân… có khác ǵ con người đâu! C̣n nhớ năm 1955 không? Có lẽ nào cô lại quên cái tṛ bó thắt quần, giăng bẫy, tóm bắt bọn này? Có lẽ nào cô lại quên được món nướng, chuột om với măng và khế… cả nhà xúm nhau lại đánh chén? Tụi này đă đóng góp vào khẩu phần thức ăn nuôi sống các người… lại c̣n không nhớ sao?

        Tôi kể thêm cho cô nghe câu chuyện nữa. Muốn bí mật th́ cứ giữ kín, c̣n lộ bem ra cho bốn bể anh em biết th́… cũng chẳng sao. Ở Thanh Hóa có hai ông bác sĩ Đỗ Vân, Đặng Ngọc Khôi. Chỉ nghe tên thôi à? Họ là bạn của bố Mai Duy Vỹ đấy! Năm 1955. Cải cách Ruộng đất. Mấy vị thầy thuốc này bị Lê Xuân Tái, thằng mọt gian hung thần kư lệnh bắt giam nhốt vào tù.

        Ở trong tù, họ đói khát đến nỗi nhiều khi có thể vơ bốc mọi thứ quanh ḿnh bỏ vào mồm những cái mà họ tưởng là có thể ăn được!

        Tinh mơ gà mới gáy, có hôm đoàn tù đă phải lên đường giải đi sớm.

        Mặt trời c̣n mê mệt ngủ trong chăn mây.

        Phương Đông biến dịch màu trắng đang chuyển dần sang màu hồng.

        Và ḱa! Mặt trời đă thức dậy mỉm cười, bắn hàng loạt mũi tên vàng chân lư vào màn đêm nô lệ đen tối dưới ngục tù thế gian, chói lọi xuyên qua những trái tim hồng. Đoàn tù ngẩng đầu ngưỡng vọng, sững sờ. Đỗ Vân và Đặng Ngọc Khôi đang bước hàng hai bên nhau bỗng dừng lại. Bàn chân trần khô nẻ, buốt giá của họ vừa giẫm phải cái ǵ mềm mềm trơn trơn? Ồ! Mấy nhánh hành tươi, củ hành tṛn nằm rơi văi giữa đường. Của ai nhỉ? Chắc là mấy bà nông dân sáng sớm mai gánh rau đưa hành ra chợ bán, vô ư làm rơi đánh rớt… Ôi cái mùi gia vị quen thuộc kích thích đến nỗi con người ta chưa ǵ nước bọt đă ứa từ chân răng, nước miếng đă tuôn ra nơi đầu lưỡi. Khỏi cần phải nói, hai vị bác sĩ vội cúi xuống vơ bốc, phù phù thổi sơ qua rồi bỏ mồm nhai nghiến ngấu. Ái chà chà ngon! Ngon quá! Nhai tới đâu da thịt rưng rưng, mắt ngời sáng lên tới đó!

        Chưa hết!

        Chuyện c̣n tiếp… Đoàn tù đă chuyển chỗ tới nơi ngục thất mới.

        Những trận đói cơn khát bây giờ c̣n thống khổ ác liệt hơn trước.

        Đă vậy, nhà giam lại chật chội, u tối, cực h́nh gấp mấy lần nơi cũ!

Nhiều đêm họ thức trắng… Canh một, canh hai, canh ba, canh tư… Tới canh năm, gần sáng rồi họ chợt thiếp đi. Đỗ Vân đưa cánh tay rời ră quờ quạng sang bên cạnh ḿnh. Ơ, cái ǵ thế này nhỉ? Mềm mềm, ấm ấm. Lúc nhúc, lổn nhổn… Một, hai, ba, bốn…Thịt da ǵ như thịt da con ḿnh? Nhưng đây là xó xỉnh hôi thối ngục tù chứ có phải căn nhà thoáng đăng êm ấm gia đ́nh lâu nay đâu mà c̣n mơ với tưởng!

        Vừa lúc, Đặng Ngọc Khôi mới mở mắt dậy cũng đưa tay sang quờ đụng phải…

        Chít! Chít! Cái tiếng ǵ phát ra bên bức tường kia, lại con ǵ vừa rùng rùng ḅ trên cột xà ngang ngay trên đầu họ?

        Đỗ Vân thảng thốt kêu: Ô! Chú chích!

        Đặng Ngọc Khôi cũng thều thào: Ồ! Con chuột!

        Một ổ chuột nhắt! Chính xác một ổ chuột vừa mới sinh!

        Mắt họ cùng sáng lên. Dẫu c̣n phủ mờ bóng tối cả hai đă cảm nhận ra được cái mượt mà múp míp, cái hồng hào hon hỏn của đĩa thịt tươi ngon đến phải tứa nước bọt ra mà nuốt đánh… ực! Trong tù chẳng có bếp núc, lấy đâu ra than củi để đun nấu nướng xào. Thôi th́… Cơn đói đang cồn cào dâng, thức ăn trời cho lại bày sẵn, c̣n ḷng nào nữa mà khách khí từ chối!

        Thế là, tự nhiên như không, bọ bốc từng con bỏ vào mồm nhai gau gáu.

        Cái vị ngọt của máu, cái mùi thơm của thịt chuột sữa, chuột nhi đồng làm răng lưỡi họ tê mê khoan khoái, tứ chi rung động, toàn thân ngây ngất. Ôi! Bữa tiệc ngon lành nhất trần đời! Dẫu có là vua chúa ngàn năm xưa, các quan chức đại gia thời bây giờ cũng không thể nào được nếm thử, xơi ngon một đại tiệc ngon lành đến như vậy!

        Ăn xong rồi, cả hai vị thầy thuốc chẳng kiếm đâu ra được ngụm nước để súc miệng, cái tăm để xỉa răng. Thôi đành vậy, biết làm sao? Họ tà tà nằm xuống, thư thả duỗi chân, đầu óc chẳng muốn nghĩ ǵ nữa. Vậy mà, mắt đă nhắm nghiền lại rồi, làm sao lệ nóng từ đâu trong con ngươi vẫn ứa ra, chảy ào tràn hai hố mắt!

        Thế nào, Lệ Uyên, cô đă nghe rơ chưa?

        Chuyện là chuyện của loài chuột chúng tôi kể, cho dù đă 45 năm qua, hơn 80 đời lưu truyền lại vẫn là chuyện có thật, chuyện trung thực; không phải thứ chuyện lếu láo bịa đặt, vu cáo, dựng đứng của loài người các ngươi đâu!

        Tôi nhắc lại để cho cô nhớ và đừng quên: Chính tụi này đă đóng góp vào khẩu phần thức ăn nuôi sống các người!

        À, hoá ra bây giờ các người lại đền ơn chúng tôi bằng cách trả oán như vậy đó?

        Cái giống người các ngươi toàn là như thế cả!

        Hử? Hử!

 

        Thầy ơi!

        Tự nhiên nước mắt con trào ra. Lồng ngực đau nhói.

        Cầm cái lồng bẫy bước ra ngoài đường trông trước nh́n sau, chờ tới khi chẳng c̣n ai chú ư đến ḿnh, con mới nhẹ nhàng mở tấm lưới cửa cho con chuột thoát ra. Sao? C̣n ngần ngừ ǵ nữa! Chuột ơi! Chạy mau đi!

        Men theo ŕa đường nó chạy thẳng một lèo, rồi đột ngột rẽ ngang, phóc lên hè phố… Biến!

        Họ Mai nhà ḿnh liệu c̣n hay mất, hở thầy?

        Mai sau, năm tháng trôi đi, con cháu dù có đời đời nhớ ơn ai nữa, thầy ơi, cũng đừng quên ơn mấy con… chuột!

 

 

CHƯƠNG 27

VỀ THĂM LẠI MÁI NHÀ XƯA

 

        Có một lần, thầy ơi… Lệ Uyên nức nở kêu lên, hai chị em con về làng…

        Chẳng hiểu sao chúng con lại thờ thẫn đi ngay vào cái lối đàng sau nhà ḿnh. Trời nắng như đổ lửa mà không đội nón, giơ đầu trần, hai đứa mới kéo nhau vào đứng núp dưới bụi tre. Từ chỗ này nh́n vào thấy vườn nhà ḿnh đă phân chia làm ba, cuốc xới nham nhở, cây cối chặt trụi… Ngôi nhà trên đă ngăn đôi bằng hàng cọc gỗ, gác nối mấy cây luồng chạy từ cửa chính ra tới ngoài sân… để chia ranh giới. Hai mái ngói trước sau chẳng hiểu sao bị bóc giở gần hết, lợp tranh rạ vào. Cái nhà bếp c̣n rách nát thảm hại hơn, mái thủng trống ḷi cả rui mè ra… Thầy có biết ai ở nhà bếp này không? Chị Tít. Chị Tít không có chồng, chẳng có con, một thân một ḿnh sống trong đó.

        Thầy c̣n nhớ chị Tít không? Chị thấp người, chột mắt, chân ṿng kiềng, gù lưng; khi bước đi hai tay vắt vẻo đu đưa như bị gẫy gập… Mẹ bảo, một lần trông thấy chị ấy ngồi trên ghế chủ tịch đoàn ở ngoài đấu trường. Mẹ không ghét bỏ ǵ chị Tít; bà cho rằng v́ bị mấy ông Đội ép buộc mà chị ấy phải tố bậy nhà ḿnh thôi. Sau này, có lần gặp mẹ ngoài chợ, chị Tít nhắc lại cái chuyện hồi đi ở cho ông bà, phải ăn chung với hai con chó để đến nỗi chó nó đớp vào mặt là chuyện không có thật. Họ dựng chuyện lên rồi ép buộc chị phải nói thế; không nói th́ lại bị quy kết làm cái đuôi cho địa chủ, làm tay sai của bọn phản động; có nói vậy th́ họ mới kết nạp cho vào Đảng…

        Nhắc lại chuyện ngày xưa, chị bảo nếu không được bà nội cho ăn, cho ngủ dưới nhà bếp th́… Tít đă thành ma từ lâu rồi.

        Đứng trước nhà bếp chị Tít giơ tay vẫy vẫy. Chúng con thấy làm lạ không hiểu chị ấy muốn ǵ?

        Hay là ta vào đi? Con nói với chị Tâm. Chị Tâm trợn mắt lên, bảo mày muốn chết hả? Liệu hồn! Mày không sợ người ta vu oan giá họa cho à? Con bảo, chị Tâm ơi, em nhớ nhà ta quá, để cho em vào xem lại cái giếng và cây khế ở ngay sau nhà bếp ḱa! Chị Tâm gắt lên, nhà ta làm ǵ c̣n nữa, mày điên à, nhà của mấy người bần cố nông… Mặc kệ! Con chứ chui qua bụi gai, rách toạc cả mặt, chân đạp lên mấy cây mây… thế là bước vô được trong vườn. Con vào nhà bếp. Chị Tít vẫn đứng trước cửa. Con nh́n chị. Chị cười. Chị hỏi con có ăn khoai không? Con lắc đầu. Chị bước lại sát gần con. Con sợ quá, lùi lại. Chị ghé mồm sát vào tai con, th́ thào: “Có lặt được mấy ḅ gạo không?” Con ngơ ngác nh́n chị : “Gạo nào?” Chị trợn tṛn con mắt độc nhăn lên: “Gạo của tôi, một ḅ, mấy bà kia, hai ḅ… lại c̣n một mo cau khoai nữa!” Con lắc đầu bảo, không biết, không biết…

        Khi về lại túp lều ngoài đồng con kể lại chuyện cho mẹ nghe, mẹ ngẩn người ra, rồi sụt sịt khóc.

        Mấy hôm mới ra ở lều ngoài đồng đúng là chẳng c̣n hạt gạo nào, mẹ nói, đêm nằm quằn quại không sao ngủ được. Gần sáng, vừa mới chợp mắt, nghe có cái ǵ rơi đánh bịch, chắc là ai vừa ném đất quăng đá vào sau lều? Sợ quá, mẹ nằm im thin thít. Sáng dậy, ḅ lết ra coi thử, th́ thấy sau tấm liếp trên đống cỏ có một gói bọc giẻ rách, buộc chằng thêm mấy sợi lạt… Mẹ lấy làm lạ, thử mở ra xem, hoá ra là gạo. Trời đất ơi! Của ai vậy? Trời Phật xót thương cho mẹ con sống, sai ai đem tới đây thế này? Mẹ cố đoán ra xem ai là người to gan lớn mật dám làm cái việc động trời ấy? Ai? Ai? Hoá ra là con Tít! Chắc hương hồn bà nội hiện lên ám ảnh, lương tâm cắn rứt không chịu nổi, nó mới đổi mặt lại làm người!

        Từ chị Tít, mẹ đoán lần đoán ṃ sang mấy người nữa: ông Bơ, bà Tạu, chị Te… những người có dạo ở nhà ta. Phải rồi, chỉ mấy người đó thôi. Rồi mẹ ôm mặt khóc.

        Trở lại chuyện chị Tít…

        Vào nhà chị, chỉ thấy cái chơng tre xiêu vẹo, mấy cái nồi, vại… và mớ quần áo rách treo trên vách vừa chua vừa hôi. Chị bảo, lúc chia quả thực, vợ chồng Đông giành hết mọi thứ chỉ để cho chị một cái niêu đồng nhỏ. Chị hiện đang đói, c̣n đói hơn hồi ở với ông bà, lại c̣n bị đau cái chi ở trong bụng, không có thuốc uống, mỗi ngày bụng cứ thấy to dần lên. Có người độc miệng phao lên rằng ông Đội làm chị có chửa… nhưng đâu phải, bụng chị đă to đến cả nửa năm nay rồi, chắc là sắp chết thôi… Chị khóc!

        Bước ra vườn, một ḿnh con đứng dưới cây khế nh́n lên. Thầy ơi! Con nhớ bà nội quá! Mới ngày nào năm trước đây, bà cháu c̣n cầm sào chọc hái mấy quả khế trĩu trịt trên cành kia! Bà bảo giống khế ngọt này xin từ quê mẹ con ở làng B́nh Lâm bên Hà Trung. Bà c̣n kể chuyện con Chim Thần ngày xưa bay đến nói với hai anh em nhà nọ. Nó kêu: Ăn quả khế, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng… Nhà nọ ngày xưa có hai anh em, ông anh th́ tham và ác, người em th́ hiền lành, biết nhường nhịn… Kẻ tham lam độc ác th́ cuối cùng phải chết ch́m ngoài biển khơi. C̣n bây giờ th́ sao? Lời bà kể có đúng nữa không, bà ơi! Người hiền lành nhân đức th́ bị vu oan, giết hại; kẻ gian manh tàn ác th́ lại được Đội ban thưởng, cho không mọi thứ. Có phải vậy không?

        Bước tới bên cái giếng con cúi đầu xuống nh́n. Mặt nước đục hôi, đầy những lá khô, vỏ mía và cung quăng. Mới ngày nào đây chị Tâm thả cái gàu làm bằng tôn xuống (c̣n một gàu nữa làm bằng mo cau, con thích dùng gàu này hơn!) kéo dây thừng múc nước lên đổ vào chậu thau đồng có pha bồ kết… Mẹ cấm con không được thả gàu xuống giếng múc nước, con c̣n nhỏ mà, sợ có khi lộn cổ xuống đó… Mẹ xối nước lên người, ḱ ghét mạnh tay làm da thịt con ửng đỏ, đến nỗi con phải nhăn nhó; rồi mẹ gội đầu, chải tóc cho con…

        “Đứa nào đứng ngoài giếng đấy?”

        Tiếng quát to sau lưng làm con giật nẩy ḿnh. Quay lại nh́n con thấy vợ chồng chú Đông.

        “Con gái thằng Vỹ hả? Mày đến đây làm ǵ?”

        Chú Đông bặm môi, hằm hằm nh́n con, tay cầm thuổng và bó rau lang. Con nh́n chú chẳng nói ǵ. Thím bước tới, xỉa thẳng ngón tay cái vào mặt, nói như hét; nước bọt bắn cả vào mặt mũi con…

        “Mày vừa bỏ cái ǵ xuống giếng phải không?”

        “Không!” Con hoảng sợ, cuống lên. “Cháu đứng đây… chơi mà!”

        “Cháu ai? Mày là cháu ai hử? Rơ khéo… Chơi với ai, chơi cái ǵ? Mày định bỏ thuốc độc xuống giếng để giết hại mấy gia đ́nh bầy choa ở đây phải không? Hử? Con thằng Vỹ địa chủ phản động giết hại nhân dân!”

        Toàn thân con run lên. Không thể nói được ǵ, con chỉ biết nh́n thẳng vào mặt chú Đông. Con muốn nhảy ngay xuống giếng để được chết theo thầy, thầy ơi!

        Vừa lúc ấy, chị Tít đứng ngay đằng sau con.

        “Khong! Khong!” Chị kêu lên, lưỡi ngọng líu, mắt đảo ngược.

        “Khong ! Khong!” Vừa nói vừa lắc đầu, chị quờ tay ôm lấy vai con “Tôi gặp nó ngoài kia, tôi bảo nó vào nhà chơi với tôi…” Chị nắm tay con lôi kéo vào nhà. Chị ấn con ngồi xuống chơng tre, lấy quạt mo quạt quạt cho con…

        … Trở ra ngoài đường gặp lại chị Tâm, chị ấy cốc lên đầu con một cái: “Đồ ngu! Tao đă bảo rồi mà không chịu nghe. Thấy chưa?”

 

 

CHƯƠNG 28

BÉ LỆ UYÊN Đ̉I BỐ MAI DUY VỸ

KỂ CHUYỆN M̀NH CHO CÁC CON NGHE

 

        Lệ Uyên gục đầu xuống, hai tay bưng mặt nghẹn ngào. Chị khóc như bao đứa trẻ trên đời này không hiểu v́ đâu, chẳng rơ tại sao ḿnh sinh ra trong một gia đ́nh tử tế lương thiện, có đến nỗi nào mà tự nhiên mới lọt ḷng ra đă lănh chịu án chung thân thành phần, khổ sai đọa đầy ngay giữa cái Địa ngục Trần gian hỗn độn những giai cấp!…

        Ông Vỹ vuốt ve đầu tóc con, lấy hai ngón tay nâng cằm Lệ Uyên lên nói:

        - Nín đi con, con gái thương của thầy mẹ. Lỗi tại thầy mẹ cả. Thầy mẹ sinh các con ra để các con chịu bao nhiêu là đau khổ. V́ thầy mẹ mà anh trai con, không rơ chết đói hay chết đuối. Ai đă đánh nó, thắt cổ nó, d́m nó xuống sông… đến nỗi, sau này chết rồi, xác vùi lấp ở đâu cũng chẳng ai biết…? Thầy xin lỗi các con. Hăy tha tội cho thầy!

        - Thầy chẳng có tội ǵ hết! - Lệ Uyên hét lên - Trời có tội! Chính Trời đă gây ra bao tai họa đau thương cho gia đ́nh ta! Trời! Trời!

        - Đừng! Đừng! - Ông Vỹ hốt hoảng xua tay - Đừng làm kinh động lên cả Bên Này Bên Ấy. Cả đất nước, cả nhân loại… người người nhà nhà đau khổ, đâu chỉ riêng gia đ́nh họ Mai chúng ta. Bể khổ Trần gian này thầy vẫn đủ can đảm để nh́n vào, ch́m xuống. Nhưng đôi mắt nhoà lệ của con, ôi con gái thương của thầy mẹ, dù chỉ một giọt trào rơi thôi, cái ḷng mẹ cha đây thật không sao chịu đựng nổi. Lệ Uyên ơi, được gặp nhau như thế này con không thấy là hạnh phúc sung sướng hay sao? Thôi! Hăy quên đi! Quên đi! Quên tất cả đi!

        - Không! Không! - Lệ Uyên vùng vằng, lúc lắc đầu như sắp đập vào bức tường nào trước mặt - Thầy chưa kể hết mà, thầy phải kể tiếp! Kể cho con nghe, em Thùy Dương nghe, cho tất cả loài người ở Bên y Bên Này, Bên Này Bên y nghe.

        Con chưa được biết, được thấy khoảng thời gian c̣n lại, những giây phút cuối cùng khi thầy từ Bên Ấy đi sang Bên Này!… Mẹ và các con sau này cũng có nghe người ta, bà con ở Nga Sơn, cả tỉnh Thanh Hoá và cả Miền Bắc Xă hội Chủ nghĩa kể chuyện ông Mai Duy Vỹ bị chôn sống vào cái năm Cách mạng long trời lở đất ấy!

        Dẫu rằng chuyện là chuyện có thật, đâu phải bịa đặt dối trá như bao chuyện trên đời này, nhưng thầy ơi, suốt 45 năm nay, con chỉ mong ước trông chờ đến ngày hôm nay để được nghe chính thầy kể. Chỉ có thầy kể con mới thật tin.

        Thầy phải kể để cho con người ở Bên y Bên Này, Bên Này Bên y nhận mặt chỉ tên ra được Tội Ác. Nếu như không ngăn chặn tiêu diệt được th́ cũng để giúp cho con người biết đường mà tránh mặt Tội Ác! Con van thầy! Con xin thầy kể đi, kể đi!...

         

        Ông Vỹ dừng lại nh́n con. Cái nh́n phân vân do dự cách đây đă 45 năm, khi đứa con gái út hờn dỗi đ̣i bố đưa sang B́nh Lâm để chơi với bà ngoại. “Con nhớ bà, con thương bà!” Bố th́ bận đi khám bệnh chích thuốc cho ông Toành, người quen, cũng là y tá… Ông Toành đau nặng. Con trai vừa lên mời chú Vỹ xuống cấp cứu… Thế mà con hĩm Uyên này cứ lẳng nhẳng bên bố, nó khóc, nó dậm chân, nó đ̣i thầy phải đi sang bà ngay… Bực quá, ông khẽ ẩy nó ra. Chỉ một cái đẩy nhẹ thế mà con bé ngă ngửa, đầu đập xuống nền nhà, may mà không can ǵ.

        Đạp xe trên đường, nghĩ tới con ông ân hận đến nôn nao người, chỉ muốn đến nhà Toành chích thuốc cho mau xong mà về.

        Sau này, khi đă bị Đội Cải cách nhốt cùm ở điếm canh, cái người được Mai Duy Vỹ cứu chữa cho hôm đó, y tá Toành đă tích cực góp phần không nhỏ trong việc dựng chuyện, vu khống thằng Vỹ phản động gian ác đă tiêm thuốc độc vào mạch máu bà con nông dân, kèm theo những con số người bị giết hại cứ y như thật!

        Ôi! Hoá ra không có thứ độc dược nào, dù nọc rắn hay thạch tín ở trên đời này độc bằng cái miệng lưỡi của con người! Y sĩ Vỹ biết y tá Toành bấy lâu vẫn ngầm ganh ghét ḿnh nhưng ông vẫn nhẹ nhàng bỏ qua nhiều chuyện… Cái Tâm trong lành của ông lúc nào cũng vậy, không muốn vấy nhiễm dù chỉ là một gợn hằn thù.

        Đêm khuya trong điếm canh khi miệng cùm ngoạm cắn ngang cổ chân làm da thịt rơm rớm máu, ông Vỹ ngước nh́n màn đêm… Ḱa, đôi mắt nâu đen đẫm nước, cặp môi hờn dỗi của bé Uyên hiện ra. Con ơi, ông thầm kêu, có lẽ ông nội xúi con chăng; ngày hôm ấy thầy không đưa con về thăm bà ngoại ở B́nh Lâm là dở quá! Thầy có lỗi lớn. Chỉ hơn một tháng sau là thầy bị bắt giam. Vĩnh viễn thầy không c̣n được thấy lại bà ngoại. Là con rể, thầy mang tội bất hiếu. Hai lần bất hiếu!

        Ông Vỹ thở hắt ra, rùng ḿnh.

        - Chuyện dài lắm con ơi! Kể làm sao cho hết được?

        Vệt máu từ mé đầu bên phải lại ứa ra chảy xuống thái dương; vệt máu từ giữa đỉnh đầu chảy qua trán, ḅ dọc theo sống mũi, đến giữa nhân trung… Hai vệt gặp nhau đọng ở dưới cằm. Cái vết nứt ở giữa đầu toác ra, sủi lên, ứa trào những mảng óc lợn gợn máu. Mai An Tiêm lần đầu tiên bổ đôi quả dưa hấu dưới chân núi Nga An cho vợ con ăn, nh́n những giọt nước hồng, lịm ngọt từ quả quí trời ban, làm dịu dần cơn đói khát của những đứa con lưu đày thuở Vua Hùng dựng nước, chắc không thể nào ngờ rằng, mấy ngàn năm xa lắc sau này, những giọt đỏ từ đầu một đứa con cháu ḿnh bị bổ toác đôi chảy ra c̣n nhiều hơn, thấm đậm hơn mà vẫn không đă thèm được cơn khát của bọn quỷ Đỏ trên bàn tiệc máu!

        - Ừ th́ thầy kể đây - ông Vỹ tiếp - kể được chừng nào hay chừng ấy, kể tới đâu hay tới đó… Nhưng các con đừng nh́n thầy bằng ánh mắt như thế! Nào, hăy b́nh tĩnh lại…

        Ḍng Thời gian tự nhiên đứng lại. Rồi chuyển dịch ngược chiều.

        Không chỉ mấy cây cột nhà mà bàn ghế trong nhà, mọi vật cùng chuyển động, chầm chậm xoay ngược làm hai chị em cũng thấy ḿnh đang biến dịch, trôi về một quá khứ nào.

        Một con bé 7 tuổi, áo nâu bạc phếch, quần đen vá đít đang đứng trước cổng nhà gọi thầy ơi, mẹ ơi, mồm méo xệch.

        Con bé kia th́ ḅ bên ngạch cửa, mặt mũi lấm lem đất cát…

        Ông Vỹ lại dần dần biến thành ḥn lửa đỏ, chầm chậm xoay 36 ṿng như cây hương ṿng cháy rồi lặn. Chỉ c̣n tiếng nói của ông trầm ấm nghe như hơi gió thở từ đồng cói hoà với tiếng sóng biển chiều đông.

        - Nào, các con nghe thầy kể…

 

        CHUYỆN KỂ CỦA BỐ MAI DUY VỸ

 

 

CHƯƠNG 29

NHỮNG ĐÊM TRẮNG

 

        26 tháng Chạp năm Ất Mùi 1955. Ôi, cái ngày ấy nó rét ǵ mà rét dữ!

        Hai cổ chân thầy bị trầy loét, bưng mủ. Chỉ cần khẽ cựa thôi cũng đă chạm vào miệng cùm, cứ như cưa như cắt không tài nào chịu nổi. Mấy đêm liền thức trắng.

        Vừa chợp mắt, xỉu đi được một lúc lại chợt mở ra. Ồ lạ chưa, có cái ǵ nhám ráp phủ lên, cọ vào người ḿnh? Thầy đưa tay sờ soạng… Rơm rạ đâu ra thế này? Ai mang vào đây? Thảo nào ḿnh chợp mắt được một lúc. Thầy cứ nằm yên để cho những cọng rơm phủ lên trán, mũi và hít thở cái hương thơm thôn dă.

        Hồi nhỏ, có lần thầy với anh Nuôi, hai tên ngồi canh bên nồi bánh chưng đêm 27 Tết rồi lăn quay ra ngủ quên lúc nào không biết. Nằm trong rơm ấm lắm. Một đêm vui, ôm lấy anh Nuôi nghe kể chuyện làng xóm. Lại cũng có lần thầy với chú Đông, hai anh em quần nhau trong đống rơm gần chuồng trâu. Chú ấy đă hay dỗi lại c̣n bẳn tính; hơi đụng một tí là nhè, lại đi mách bà. Lạ thật! Hồi ấy, thầy không hay biết ǵ hoặc giả không quan tâm ǵ chú em ḿnh là con nuôi, con rơi ông bà nhặt được. Măi tới sau này, khi vào học trường Cô-le-giơ trên tỉnh, khai giấy tờ, mới có người nói cho thầy biết. Biết là biết vậy thôi, chứ cái t́nh anh em lúc nào cũng ruột thịt.

        Có tiếng người tranh căi nhau trước sân, ngoài pḥng giam, chen lẫn tiếng gió hú lùa qua lỗ thông hơi.

        Bây giờ chắc độ khoảng 1 giờ sáng. Trời rét cắt thịt xé da thế mà sao ai đó vẫn c̣n thức để làm ǵ không biết. Thầy dỏng tai cố nghe câu được câu chăng.

        Thật không ngờ, ngoài kia hai anh dân quân vẫn canh gác ngày đêm, c̣n có đủ mặt cả năm người: chú Đông, Hĩm Xoa, C̣ Toe, y tá Toành và ông Đội.

        Qua câu chuyện của họ thầy mới hiểu ra: đă hai hôm nay nhà họ Mai chẳng c̣n cái ǵ để đổ vào miệng; sau khi bà chết rồi, mẹ cũng lăn ra ốm và không ai đưa cơm đến cho thầy.

        …Gọi là cơm cho nó ra vẻ chuyện ăn uống của con người thôi, chứ cái đọi cháo mẹ và chị con đưa tới cho thầy hai hôm trước chỉ có mỗi nhúm gạo nấu với lá khoai và đụt khoai.

        Mẹ bảo, mẹ phải thức dậy lúc nửa đêm, lén ḅ ra luống khoai nhà ḿnh sát bụi tre, dùng con dao cùn đào bới… Khoai đă thành củ đâu, chỉ mới nhú ra đụt, giải khoai. Đang đào đang moi th́ con chó nhà Đông nó mới chạy ra, may mà nó không sủa, lại c̣n vẫy đuôi ngửi hít bên chân nữa. Hú vía ba hồn chín vía! Nó mà sủa th́ vợ chồng Đông thức dậy, Quân Chủ lực nông dân cứ là xông ra đạp đầu ḿnh xuống đất. Khoai là khoai ḿnh trồng, ấy thế mà lại phải lén lút đi ăn trộm về. Có khổ nhục không, hở Trời!

        Vậy là hai hôm nay không ai đưa cơm cho thầy!

        Thế th́, cục cơm độn khoai và mấy củ sắn thầy nhận được từ tay anh T́nh, dân quân canh gác ở đây là của ai? Của ai nhỉ?

        Ai mà to gan lớn mật dám đưa vào đây? Anh T́nh này chăng?

        Thầy nghĩ. Cứ nh́n vẻ mặt kín đáo lạnh lùng của anh bần nông này th́… thật khó đoán.

        Thầy nhớ lại tháng 3 năm Ất Dậu 45, khi ông nội con sai người nhà khuân cái nồi ba mươi cháo ra đầu ngơ để cứu đói cho làng xă th́ ông bố đẻ ra T́nh là người đến trước tiên. Lúc đưa bát cháo để anh Nuôi múc cho, ông này cúi gập đầu xuống nói: Kính lạy ông bà, một miếng khi đói bằng một gói khi no, qua cơn đói kém lần này, chẳng biết con có c̣n không hay là chết; dù có về Âm phủ con cũng đội mồ lên ghi nhớ ơn cưu mang của ông bà!...

        Hồi ấy, cứ mỗi tuần ông bà nội con nấu hai nồi cháo như vậy.

        Mẹ của T́nh cũng có lần lên nhà ta xin thuốc, chích thuốc. Những người này có tiền đâu mà trả, mà thầy cũng chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện lấy tiền của họ.

        Vậy th́, ai là người hai hôm nay đưa cục cơm, củ sắn cho ḿnh?

        Cứ nghĩ tới cái nh́n rụt rè sợ sệt, đảo bốn phía quanh buồng giam, bàn tay lóng ngóng lấy gói bọc lá chuối khô lôi từ trong túi áo lưng quần ra đặt vội trước mặt thầy… “Ông ăn đi cho đỡ đói”… “Ai cho tôi thế này?” Thầy ngạc nhiên hỏi. “Không biết! Không biết!”. Lắc đầu, đáp khẽ, vội vă bước ra ngoài… anh ta c̣n ngoái lại nói: “Tóc ông bạc trắng hết cả rồi!”

        Bây giờ th́ T́nh đang phân bua với những người kia về chuyện ḿnh đă quẳng ít rơm rạ vào pḥng giam để thầy lấy cái phủ đắp lên.

        “Mày thương thằng Vỹ hả?” - chú Đông nói, nghe như quát nạt.

        “Ái chà! Anh lày nại muốn nàm tay sai, niếm gót cho thằng địa chủ bóc nột, áp bức nhân dân, phản động bán lước đây”.

        Y tá Toành hay lè nhè, mồm nồng nặc rượu, vừa tiêm thuốc cho bệnh nhân vừa thô tục cà chớn… không thể lẫn đi đâu được.

        “Rét! Rét cái ǵ! Chỉ ḿnh thằng Vỹ biết rét thôi hử, thế c̣n trẻ con người già, nông dân cả cái Nga Bạch, Nga Sơn này người ta không ai rét hay sao? Cho nó chết!” - Hĩm Xoa nói.

        “Cho nó chết!” - C̣ Toe đế thêm, lặp lại.

        “Ló bóc nột, ló hăm hiếp dân nành, ló nhai xương hút máu bà con lông dân bao lăm lay, trong người ló c̣n ói mỡ nà mỡ, anh no cho ló rét ló nạnh nà nghĩa ní ra nàm sao?”

        “Nó chưa chết ngay đâu!” - Ai đó nữa, vừa nói vừa ngáp.

        “C̣n nâu ló mới chết!”

        Chờ cho mọi người nói xong, ông Đội người Nghệ An vừa rít một hơi điếu cày dài, sặc sụa ho, lấy tay vỗ vỗ vào miệng ống điếu nói:

        “Tôi đă trao đổi mấy lần rồi và các đồng chí cũng đă nhất trí thông qua trong cuộc họp hôm trước là, ta phải nhét một cái que sắt ngang mồm thằng Vỹ, lấy dây buộc ra phía sau gáy, ngăn sao cho hai hàm răng khỏi chạm vào nhau, để nó khỏi cắn lưỡi tự tử. Kinh nghiệm xương máu đấy, các đồng chí ạ. Ở trong quê tôi đă xẩy ra mấy vụ tự tử v́ thiếu cái que sắt gang mồm mấy thằng địa chủ… Tại sao đến bây giờ các đồng chí vẫn chưa… thi hành?”

        Thầy giật nẩy ḿnh. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới bây giờ, đă có khi nào nghe cái chuyện quái ác, lạ lùng như vậy? Ừ th́ ḿnh là con ngựa, con trâu để con người họ làm cái tṛ đó cho đành một thể; đằng này ḿnh là con người! Họ chẳng bàn kín với nhau ở đâu, sao lại kéo nhau tới đây cố ư rót vào tai, đổ vào óc ḿnh những lời ấy, ra cái điều để cho ḿnh biết rằng ḿnh chẳng c̣n được là cái con vật nữa hay sao? C̣n họ là… là Trời, hơn Trời nữa, Trời cũng phải đội họ lên đầu. Nhất Đội nh́ Trời mà!

        Thầy ứa nước mắt.

        Nghĩ tới cái đêm tháng trước đây họ dùng dây thừng buộc hai ngón chân cái thầy rút ngược lên xà nhà, để đầu và hai tay rơi thơng xuống, rồi… cứ gậy tre, gậy lim, hai người đứng hai bên phang đập vào ống chân, sau lưng, trước bụng… vừa hét vừa la bắt thầy phải nhận tội là đă cưa chặt hết chân tay của 51 anh Vệ quốc đoàn, đă tiêm và cho uống thuốc độc giết chết gần cả trăm bà con nông dân, trong đó có bốn phụ nữ mang thai, vị chi là 8 mạng một lúc; không phải, những 9 kia, v́ có một bà mang thai đôi, sinh hai đứa…

        Thầy kêu lên trong cơn đau: Thưa các ông bà Đội, các ông bà nông dân… Vâng, tôi xin nhận tội. Tôi đă cưa, đă chặt, đă tiêm thuốc độc, đă giết chết… nhưng không phải chỉ có thế thôi đâu, nhiều hơn, nhiều hơn nữa… Một ngàn chín trăm năm mươi lăm người kia! Nghĩ tới năm 1955 tự nhiên thầy buột miệng nói vậy.

        Và thầy hét to: Đúng tôi đă giết người. Giết bằng dao! Giết bằng xê ranh! Tôi đă cầm xê ranh đâm cả đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ, đâm cả Chủ tịch tỉnh, đâm cả Trưởng ty Công an! Rồi thầy cười sằng sặc. H́nh như trong bọn họ có người không nhịn được cũng đă cười theo.

        Ngay lập tức, C̣ Toe cầm cây gậy lim vuông cạnh, gơ một cái thật mạnh vào đầu gối chân phải thầy. Rồi tiếc rẻ, gơ thêm một cái nữa c̣n mạnh hơn, vào đầu gối bên kia.

        Họ cởi tháo dây thừng, định để thầy ngối xuống đất nhưng thầy đă ngă vật ra… Máu từ trong lỗ mũi, ộc tuôn xuống nền nhà. Chờ cho thầy mở mắt, họ lại tiếp tục tra hỏi thêm về hai tội nữa.

        Tội một: Cắt dây điện!

        Thầy trả lời họ: Khắp cả Nga Sơn và Thanh Hoá, mọi nhà dân đều thắp đèn bằng dầu trảu, dầu lạc và rất ít dầu hoả; t́m đâu ra dây điện đèn ngoài đường? Nếu c̣n sợi dây điện nào từ thời Pháp thuộc để lại th́ cũng chỉ để giăng phơi quần áo. Tôi cắt dây điện để làm ǵ? Cắt ở đâu? Ai thấy tôi cắt?

        Họ bảo: Cái năm mày làm y sĩ cưa chân chặt tay các anh Vệ quốc đoàn, mày đă dùng liềm, trèo lên cây quạc cho đứt dây điện để đơn vị bộ đội không bắt liên lạc được với Bộ chỉ huy. Rồi máy bay Pháp tới, mày c̣n giả vờ đi ỉa; chui vào ngồi trong bụi cây, bấm đèn bin lên trời làm hiệu cho Pháp nó bỏ bom! C̣n chối nữa không? Ai thấy th́ làm sao mày biết được, mà biết để làm cái chi! Có người thấy. Thấy rơ ràng. Quần chúng, Quân Chủ lực trăm tai, trăm mắt…

        C̣n tội thứ hai nữa, tội này rất nặng, rất to!

        Mày đă từng bắt liên lạc với các cha cố ở Bùi Chu, Phát Diệm, từ đó mày cấu kết với Pháp. Mày quen thân với thằng Lê Hữu Từ, trùm sỏ Công giáo… C̣n chối nữa không?

        Thầy trả lời họ: Tôi là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Tôi chỉ thờ các ông Mác, Ăngghen, Lênin, Stalin và Bác Hồ… Ngoài họ ra tôi thờ ông bà, tổ tiên. Tôi không theo tôn giáo nào. Những người Công giáo yêu nước như bác sĩ Vũ Đ́nh Tụng, có con trai hy sinh ngay những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi cũng kính trọng họ…

        Họ cắt ngang lời thầy: Vỹ! Mày nói bậy! Tôn giáo tức là quân phản động, bè lũ tay sai của đế quốc phong kiến, chống phá Cách mạng… Chỉ có người Cộng sản, nhân dân ta mới yêu nước, ngoài ra chẳng có ai yêu nước hết! Hăy nhận tội đi! Trong nhà mày có đủ sách Tây sách Tàu. Rất nhiều sách chữ Tây. Có một quyển rất dày, to bằng cái gối, trong đó chụp đủ h́nh bọn vua quan phong kiến, thực dân… Có cả ảnh Giêsu nữa. Đúng không?

        Trong đầu thầy bóng tối dần dần chuyển thành ánh sáng. Thôi chết cha rồi! Hoá ra là…

 

 

CHƯƠNG 30

CHUYỆN ĐỒNG CHÍ Y TÁ TOÀNH.

CHUYỆN VỚ VẨN TRONG NHÀ.

CHUYỆN TÀO LAO KHÁCH KHỨA.

 

        Thầy gặp Toành ở Đại đội trong chiến dịch Hà Nam Ninh. Cứ theo lời Toành tự kể th́ anh ta quê gốc ở Thái B́nh, Nam Định ǵ đó, đói Ất Dậu phiêu bạt vào Nga Sơn - Thanh Hoá. Ừ th́ cũng coi đồng chí này như đồng hương Nga Sơn - Thanh Hoá. Chính thầy đă lấy anh ta lên làm lao công, hộ lư. Toành có tật nói ngọng, cà lăm… chữ to quốc ngữ đọc cũng chưa thạo; tên thuốc th́ chẳng những không gọi được mà c̣n nhớ tầm bậy; tiêm thuốc th́ trầm trầy trầm trật măi mới chọc được mũi kim vào ven…

        Đă thế lại c̣n phách lối, nói trạng. Có biết quái ǵ đâu về y tế. Ngay cả danh hiệu y tá cũng là do anh ta tự phong cho ḿnh, Toành có được qua trường lớp đào tạo nào đâu!

        Một lần đang ca mổ, tay chân lóng ngóng thế nào, Toành đánh rớt cái khay có đủ dao, kéo, pince… xuống đất; anh ta vội nhặt lên, phồng má thổi phù phù, đưa vạt áo ra lau vội… Thầy mới nổi điên lên mắng anh ta là đồ ngu, hậu đậu, đồ óc bùn… Giữa đám y tá, hộ lư, Toành đỏ mặt giận, từ đó có ư để bụng…

        Thầy biết, nhưng rồi công việc ngập đầu, chẳng c̣n th́ giờ đâu tṛ chuyện với anh ta nữa. Thương binh ngày một nhiều, người phục vụ không đủ, rồi lại phải nhờ đến Toành. Có hôm thầy bảo đưa đây lọ cồn, đầu óc để đâu đâu Toành lại đưa cuốn băng, cái kéo… Các loại thuốc Tây thông dụng cũng thế, đă bày đi dặn lại nhiều lần, dẫu có khá hơn rồi vẫn vậy… nghĩa là lộn phèo, bát nháo chi khươn!… Áp bờ phên (aspirine), đá ghè răng (dagenan), Canh kí dốt (teinture d’iode)… xít tép, pêni… cứ Việt Nam hoá ra vậy th́ may ra Toành c̣n nhớ.

        Một lần, ở Tiểu đoàn bộ, thầy giảng giải cho Toành hiểu “nhà dây thép” là ǵ, bưu điện là ǵ, điện thoại moóc-xờ là ǵ, đánh moóc nghĩa là làm sao?… dây điện thoại mà bị đứt là tin tức phát đi cũng bị ngừng, nghĩa là không c̣n nghe thấy ǵ nữa. Người chỉ huy, Bộ Tư lệnh mà mất tin tức liên lạc với cấp dưới th́ chiến dịch ở thế thắng cũng chuyển thành thế thua. Rất nguy hiểm! Trong chiến tranh ở các nước phương Tây, người ta mà bắt được quả tang người nào đang cắt dây điện là kẻ ấy chắc chắn lănh án tử h́nh.

        Có một lần thầy cùng đi với Toành từ Phát Diệm về Nho Quan. 9 giờ tối. Đột nhiên có máy bay Bà Già Pháp rè rè tới lượn quanh vùng. Lại đúng lúc thầy đau bụng nên chạy vội vào bụi cây gần đường để đi ỉa. Chính tay thầy giao túi xách cứu thương có chữ thập đỏ và cái đèn pin cho Toành, dặn anh ta chớ có táy máy tḥ tay vào công tắc mà đèn bật sáng; máy bay nó xả liên thanh dội bom xuống đầu cho mà chết cả lũ bây giờ!…

        Vừa ngồi vào bụi cây chưa kịp ị, th́ lạ chưa, cái đèn pin bên kia đường tự nhiên loé sáng. Thầy hét lên. Lóng nga lóng ngóng một lúc Toành mới tắt được ánh đèn. Máy bay Bà Già Pháp xuống rất thấp, như vừa nhận được dấu hiệu ở dưới đất, lượn quanh mấy ṿng…

        Cả hai đồng chí vùng căng chạy. Chạy được một quăng chừng hơn nửa cây số th́ đạn pháo ca nông của địch từ ngoài biển câu vào uỳnh oàng liên tục. Hú vía!

        Thầy mắng cho Toành một trận. Hắn ta cười h́ h́ bảo rằng lần đầu tiên trong đời được cầm đèn Bim nên thích quá, thử… bấm chơi! Thích cái tiên sư cha mày! Đồ đồ…

        Thầy lại nhớ tới cuốn tự điển Larousse của nhà ta thường đặt trên bàn làm việc sau cửa sổ… Đúng là trong ấy có đủ h́nh ảnh các ông Tây đế quốc từ Napoléon tới Pasteur. Có lần thầy c̣n chỉ dẫn cho bầy đứa và cả chú Đông đứng bên xem h́nh Chúa Jesus Christ.

        Rồi lại nhớ…

        Cái lần nào nhỉ? Giữa đám bạn bè khách khứa tới chơi nhà, nhân lúc vui chuyện thầy kể ḿnh đă thấy Vua Bảo Đại năm vào thăm Huế đúng dịp lễ Nam Giao. Rồi sau này Tổng khởi nghĩa 1945, khi Cố vấn Vĩnh Thuỵ trên đường ra Hà Nội, qua Thanh Hoá, nghỉ lại nhà Uỷ ban, ngày xưa gọi là Toà Sứ, thầy lại gặp Bảo Đại.

        Lần này không phải thấy xa xa mà ngay trước mặt.

        Chả là, dạo ấy thầy được cấp trên điều động công tác vào nhà Uỷ ban để phục vụ, khám chữa bệnh, tiêm thuốc cho mấy ông lớn Cách mạng: Chủ tịch, Bí thư… Khách Trung ương từ Hà Nội vào, trong Nam ra… Các ông Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt, Lê Tất Đắc, Lê Chủ…

        Đang ngồi ở pḥng khách, thấy cố vấn Vĩnh Thuỵ đi từ buồng tắm gần đó ra, trên người chẳng mặc quần áo ǵ hết, cứ trần truồng rất chi là tự nhiên, thầy đâm ra lúng túng, không biết nên chạy đi đâu… Cố vấn hiểu ư, gật đầu cười, nói giọng Huế: “Cứ tự nhiên! Cứ tự nhiên!” Rồi thong thả trở về pḥng ḿnh.

        Chuyện kể tới đó mọi người ai cũng cười. Có người lắc đầu không tin. Lẽ nào đồng chí Cố Vấn, anh Vĩnh Thuỵ, cựu hoàng Bảo Đại mà lại như thế?

        Một người bạn của thầy là Hà Kính Lăm, c̣n gọi là Bang Lăm, thời Pháp ông này làm Bang Tá, có lúc làm việc và sống gần Bảo Đại… Ông Lăm lên tiếng xác nhận đúng là Bảo Đại quen sống tự nhiên như Tây vậy. Cựu hoàng vô tư và hiền lành, cả đời chưa giết hại một người nào!

        Nhân ngày lễ Noel sắp đến, mọi người lại nói sang chuyện Nhà thờ và các Cha cố!

        Hồi thầy c̣n làm ở Nhà thương Thanh Hoá các Cha cố đến khám chữa bệnh là chuyện thường. Họ là người, cũng ốm đau bệnh tật như ai. Thầy cũng chỉ biết sơ sơ về họ, không quen thân với một vị nào.

        Ông Bang Lăm, bạn của thầy, biết khá nhiều về họ. Ông này kể chuyện ḿnh đă từng gặp Giám mục Lê Hữu Từ tại nhà thờ Phủ Cam ở Huế. Cũng t́nh cờ mà gặp thôi chứ không có quan hệ ǵ; bởi lẽ đồng chí Lăm bây giờ đă là đảng viên đảng Cộng sản, ngày xưa hồi c̣n làm bang tá cho Tây, không chỉ che chở cho ông em là Hà Kính Thắng, hiện là Phó Chủ tịch tỉnh, mà c̣n cưu mang cả đồng chí của em ruột ḿnh nữa…

        Lăm kể, Lê Hữu Từ người nhỏ gầy, trông rất thông minh mà cũng có vẻ hiền lành, bây giờ đang là trùm Công giáo ngoài Bùi Chu, Phát Diệm, ngay sát nách Nga Sơn ḿnh…

        Một người khác chen vào, thông tin cho mọi người biết, ngoài Bùi Chu, Phát Diệm, dưới nhà thờ có những cái hầm sâu, nhiều đảng viên Cộng sản, du kích quân của ta đang om xương ră thịt… Cả một núi đầu lâu Việt Minh trong đó! Kinh khủng chưa!

        Như vậy, người gặp Giám mục Lê Hữu Từ là ông Bang Lăm, sau Cách mạng tháng Tám chuyển sang làm nghề dạy học, được kết nạp vào Đảng năm 1948, chứ đâu có phải Mai Duy Vỹ, mà bây giờ người ta lại tra hỏi thầy!

        Ối! Trời cao đất dày! Lời nói đọi máu! Cái đời này sao mà rắc rối hiểm độc thế! Ai trong đám khách khứa bạn bè họp mặt ở nhà tôi hôm ấy đă dựng chuyện đổ vấy sang cho tôi? Ông Bang Lăm, đồng chí Lăm, thầy giáo Lăm th́ xa chạy cao bay, sống nơi nảo nơi nào rồi!

        Ai thế nhỉ? Ai?

        Chú Đông th́ rơ mười mươi là tác giả của cuốn sách dày như cái gối có đầy đủ ảnh bọn Tây đế quốc và Chúa Trời phản động rồi. Không lẽ chú lại c̣n là tác giả của… Chắc chắn không phải! Chúa Trời làm sao mà nhét nổi Đức cha Lê Hữu Từ vào cái đầu ḅ, óc lợn của đồng chí Lê Trạch Đông!

        Vậy th́ ai? Ai? Ai là người đơm đặt chuyện, dựng đứng thanh gươm độc này lên!? Thầy cố nhớ… cố nhớ…

        Đột nhiên, cả chùm thần kinh trong đầu răo ra, đứt dần… c̣n lại sợi căng nhất nối linh hồn thầy với Cơi Sống cũng muốn đứt luôn.

        Linh hồn thầy ch́m trong vũng máu. Mê man…

        Mở mắt ra…

        Tiếng rít điếu cày lại vang lên trong đêm đông giá rét nghe phát kển người như đường gươm đưa, lưỡi hái vung của Thần Chết. Vỗ vỗ miệng điếu cày xong, lại vẫn cái ông Đội trưởng Đội Cải cách người Nghệ An đó nói: Ông ta nhắc lại cho cả bọn nghe là phải gang mồm thằng Vỹ, đặt ngay một cái que sắt, buộc dây ṿng vào sau gáy… để đề pḥng nó cắn lưỡi tự tử, nó mà cắn lưỡi tự tử là hỏng bét! Không đưa nó ra bắn ở đấu trường được là cả một thất bại chung không chỉ cho công cuộc vận động đấu tố của quần chúng Cách mạng, Quân Chủ lực Nông dân… mà c̣n hạ thấp uy tín của Đội, của Chi bộ Đảng mới thành lập!

        Cả bọn xuưt xoa, nói sang chuyện thời tiết giá rét. Rét ǵ mà rét dữ! Rét không kém ǵ năm Ất Dậu 45! Rét cóng cả tay chân, máu trong người đông lại. Rét đến nỗi cá trong ruộng, ngoài đồng chết cóng nổi lên. Sáng dậy, sương giá như rắc muối bột trên lá cây, rau trồng không mọc nổi, héo úa… vụ mùa này coi như mất trắng. Biển động, không ai đi khơi. Nhà nhà hết gạo. Phải đào củ chuối ăn với hổng xanh!

 

 

CHƯƠNG 31

LÀ CON NGƯỜI, MAI DUY VỸ

CŨNG THAM SỐNG SỢ CHẾT…

 

        Thầy lại thiếp đi.

        Vũng máu quanh ḿnh hồi đầu đêm c̣n dâm dấp dưới lưng bây giờ đă ngập tràn lên tới mũi, mang tai? Thầy muốn động cựa ngoi lên để thở, muốn chống tay ngồi dậy; nhưng mỗi lần cố lại mỗi lần xuội đi, xịu xuống…

        Biển máu ngập ngụa đang duềnh lên, duềnh lên… Cái thây Mai Duy Vỹ nằm ngửa không trôi đi mà cứ yên vị tại chỗ. Ḿnh chết thật rồi chăng? Thầy nghĩ. Họ sắp giết ḿnh? Đă mấy ngày nay câu hỏi ấy cứ lui tới, ṿng vo trong đầu; lúc th́ âm i vo ve như cánh ong ruồi, khi th́ ầm ào như cơn băo biển. Ừ th́ đời con người ta, ai sinh ra rồi cũng một lần chết. Nhưng ḿnh mới 36 tuổi, bàn chân chưa đi vợi nửa con đường; cả một đời trong trắng vô tội, ấy là chưa kể bao điều hữu ích, nhân đạo ḿnh đă làm v́ Đảng, cho dân!

        Ḿnh yêu đời, thương người thế sao ḿnh lại phải chết? Ai bắt ḿnh phải chết? Thật oan uổng và bất công!

        Đôi mắt của con hiện lên ḱa! Ôi Lệ Uyên, con mới 7 tuổi. Mắt con như mảnh trăng trên Ḥn Nẹ, đêm nào thầy bồng con ngoài đồng cói nh́n ra biển. Mảnh trăng vô tội. Ḥn Nẹ vô tội. Con gái tôi vô tội. Chúng ta đều vô tội. Làm sao các con tôi từ đây có thể sống mà không có bố?

        Người ta sắp giết Mai Duy Vỹ ư? Chuyện vô lư quá. Vô lư như người ta muốn giết bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mùa nào th́ cũng phải để tự nó hết, tự nó ra đi chớ.

        Bao năm rồi y sĩ Mai Duy Vỹ vẫn thường nghe người ta nói, hoặc chính ông ta nói, khi một con bệnh không c̣n sống nữa: “Anh ấy… bà ấy… chết rồi…” Chuyện này có thể hiểu được bởi v́ Vỹ cùng các thầy thuốc đă bó tay, không c̣n cách ǵ cứu mạng cho những con bệnh đó. Và phải chấp nhận.

        C̣n bây giờ th́ Mai Duy Vỹ lại nghe người ta nói: “Thằng Vỹ sắp chết! Chúng ta sắp đem nó ra bắn để toàn Đảng toàn dân thấy được rằng ư nghĩa của cuộc Cách mạng long trời lở đất này rất chi là quan trọng. Đừng để Vỹ chết trước khi đem nó ra xử bắn. Phải đặt một cái que bằng sắt gang mồm nó lại để cho nó khỏi cắn lưỡi tự tử.”

        Như vậy th́… vô lư hay là có lư?

        Thầy tiếp tục suy luận như đang tranh căi với ai ngồi trước mặt ḿnh.

Cái người-vô-h́nh đó nói với thầy như thế này:

        Mai Duy Vỹ phải chết bởi tội của nó nặng lắm, lớn lắm. Nó đă giết bao nhiêu người! Chúng ta giết Mai Duy Vỹ chẳng những không có tội mà c̣n có công lao thành tích nữa. Bởi cái điều đơn giản dễ hiểu là, giết một kẻ có tội th́ không bao giờ có tội!

        Nhân dân ta, Đảng ta không bao giờ có tội! Làm Cách mạng có thể mắc khuyết điểm chứ không bao giờ phạm sai lầm. Nếu chỉ v́ sợ sai mà không dám làm th́ c̣n gọi ǵ là Cách mạng nữa! Ưu điểm bao giờ cũng là chính, khuyết điểm là phụ… có sai lầm khuyết điểm th́ mới thấy được thành tích ưu điểm là to lớn, quan trọng. Bởi thế cho nên, ngay cả trong khuyết điểm và sai lầm, nếu có đi nữa nhân dân ta vẫn bất diệt, Đảng ta càng vĩ đại!

        Phải giết thằng Vỹ! Không chỉ một thằng Vỹ mà hai ba thằng Vỹ nếu cần. Đừng để cho nó chết trước khi chúng ta đưa nó ra giết…

        Đó là mục tiêu duy nhất mà chúng ta phải nhắm tới và thực hiện.

        Thầy quay sang đếm những con số. Một hai ba bốn… Bắt đầu là kim giây đồng hồ chỉ từ số 12 đến số 6. Chỉ vậy thôi rồi nhân đôi lên để biết mạch đập của bệnh nhân trong một phút là bao nhiêu. Biết bao lần như thế trong bệnh viện?

        Đến số 36, thầy chợt dừng lại. Ḿnh đă sống tới hơn nửa đời người sao? Nhà ta chưa có ai sống tới 70 cả. Ông cố họ Mai, cụ Thám hoa chỉ sống tới 63. Ông nội của thầy chỉ… 43. Ông nội của con 60. Bà nội con 57. Ḍng họ Mai cứ đoản thọ, yểu mệnh dần…

        Ngày xưa, năm hết Tết đến người ta thường chúc nhau mạnh khoẻ sống lâu. Vậy mà rồi có người lại ngậm ngùi thở than: đa thọ đa nhục! Chỉ có vua chúa mới được dân chúng cầu nguyện và tung hô vạn tuế, vạn vạn tuế!

        Ngày nay th́ ngoài Đảng ra chỉ có Bác Hồ là được toàn dân hô muôn năm. Đến như anh Trường Chinh cũng chỉ được hoan hô thôi th́ c̣n nói ǵ đến ai!

        Mọi người dân đều phải sống hy sinh quên ḿnh. Hy sinh, trước hết có nghĩa là phải chấp nhận cái nghèo, sau nữa là cái chết khi Cách mạng cần.

        Lo lắng cho bản thân ḿnh là chuyện xấu xa đồi bại rồi, nhưng thương cảm cho gia đ́nh, người thân lắm khi cũng vẫn là điều kiêng kị, đáng chê trách. Phải hiến dâng tất cả cho sự nghiệp cách mạng để chủ nghĩa Cộng sản, thế giới đại đồng được kiến lập trên khắp địa cầu. Ấy mới là tiêu chuẩn, mẫu mực đạo đức của người đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản quang vinh!

        Vâng! Đó cũng chính là ước muốn của đời con. Kính thưa Bác cùng các anh lănh đạo trên Trung Ương! Đă có bao giờ ḷng con hoen ố v́ những vết mờ hoài nghi cái mục tiêu cao cả thiêng liêng của Cách mạng?

        Không! Không bao giờ! Ḷng dạ con đây… hoàn toàn trong trắng! Tâm hồn con đỏ tươi màu cờ Liềm Búa. Cha mẹ con, vợ chồng con vui vẻ chấp nhận được chia sẻ, hoà đồng với cảnh nghèo khó túng thiếu của bà con nông dân. Ăn bát đất mẻ, cơm độn, cà thâm, đắp chiếu, mặc áo quần nâu, lội bùn, cày cấy trên mảnh ruộng cùng bà con ư? Chúng con xin cố gắng làm theo, làm đủ.

        Một thời ḍng họ, gia đ́nh con được đầy đủ, sung sướng hơn bà con làng xă. Đúng thế! Bây giờ bà con làng xă cần bao nhiêu ruộng, theo lệnh Đảng, vâng lời Bác, chúng con sẵn sàng dâng hiến!

        Nếu các ông bà nông dân, các đồng chí công nhân lănh đạo tiền phong, coi những tri thức của con do nhà trường đế quốc thực dân đào tạo ra là không bằng cục phân, à cục cứt chứ, Mao Chủ tịch vĩ đại đă từng gọi như vậy: Cục cứt! Vâng cục cứt! Và một đời cầm xê-ranh, cầm dao mổ của con đă không có công mà c̣n có tội nữa; bởi v́ thể xác con, đầu óc con, tâm hồn con đều do ṇi giống, thành phần địa chủ bóc lột mà ra cả… th́ hăy cho con được làm kiếp tôi đ̣i, phục dịch bà con bần cố nông để trả nợ, đền ơn họ.

        Con xin làm con trâu đi cày, con ḅ đi bừa… Con xin làm đứa ở để dọn dẹp nhà cửa, hầu hạ bếp núc. Nếu vẫn chưa thoả măn được bà con bần cố th́ con xin làm con chó để sủa trộm, dọn phân, con xin làm con mèo để bắt chuột!…

        Nhưng xin đừng giết con, để cho con sống! Tuổi đời con mới 36, ba đứa con dại th́ một đứa vùi xác mất tích ở đâu rồi, c̣n lại hai đứa… con mà chết th́ lấy ai người nuôi chúng?

        Lệ Uyên! Lệ Uyên! Thầy gọi tên con!

        Thầy sợ chết, các con à. Thầy sợ lắm. Thầy khóc. Cứ tưởng đâu lệ đă cạn khô rồi; vậy mà, hễ nghĩ tới các con ḍng lệ lại tuôn trào.

        Chắp hai tay thầy lạy Đội Cải cách, thầy vái bà con nông dân. Họ đâu có trước mặt ḿnh như ở ngoài đấu trường, vậy mà thầy cứ gập đầu xuống ngực mà vái mà lạy.

        Mấy lần ngoài trường đấu thầy c̣n ngẩng đầu lên, không phải để doạ nạt cao ngạo với ai; khốn nạn, đă biết ḿnh sa vào cái phận “chim treo trên lửa, cá nằm dưới dao” rồi, vậy mà vẫn c̣n cố căi!

        Không căi làm sao được hở con, Lệ Uyên ơi, khi người ta vu oan giá họa cho ḿnh những tội danh mà chẳng phải ḿnh, thiên hạ có nằm mơ cũng không tưởng tượng ra nổi. Chỉ nghe thấy thôi, trẻ con nó cũng chẳng tin, người lớn tuổi không nhịn được cười. Cái thời chúng ta đang sống đây, Địa ngục Trần gian ma đưa quỷ dẫn, nó lạ lắm, rùng rợn lắm, con ơi! Ai muốn sống kẻ ấy phải biết sợ. Sợ rồi, chưa đủ, c̣n phải chịu nhục, chịu hèn nữa!

        Hai ống chân thầy lở loét v́ lâu ngày cọ xát với miệng cùm. Phía sau mông đít c̣n khốn khổ hơn, ung nhọt thối rữa, ḍi bọ ḅ lên cả trên ngực, trên cổ… Mỗi lần trở ḿnh hoặc muốn ngồi dậy thầy cố nghiến răng để khỏi bật lên tiếng kêu rên. Kêu rên để làm ǵ khi không có ai nghe nỗi đau của ḿnh?

        Cũng c̣n may là họ chưa đặt que sắt ngáng mồm ḿnh lại. Thầy đâm ra biết ơn người nào đó đă bàn ngang, bàn lùi, chưa thực hiện cái chỉ thị của ông Đội, là phải gang mồm thằng Vỹ… Anh ta cho rằng chưa thật cần lắm và cũng chẳng đến nỗi như vậy đâu!

        Đă thế th́ thầy c̣n phải ghi ơn tất cả bọn họ; nhất là ông Đội trưởng, anh bộ đội Cụ Hồ, đă từng tham gia Cải cách Ruộng đất đợt đầu tiên, người quê gốc Nam Đàn, như lời anh ta nói với các đồng chí ngoài sân kia…

        Lần này nếu tai qua nạn khỏi, họ không giết ḿnh, c̣n để cho ḿnh sống… thầy sẽ đến trước từng người, cúi gập xuống dưới đầu gối họ mà lạy, ghi ơn họ!

        Thầy sẽ lạy mỗi người ba lạy; riêng chú Đông, Hĩm Xoa, C̣ Toe, y tá Toành th́… xin lạy 5 lạy, không, nhiều hơn kia, những 10 lạy! Bởi v́ sao? Bởi v́ chính bốn vị này đă dắt dẫn Cái Chết đến cho thầy, làm thầy hiểu được ḿnh ham sống, quư mạng sống đến chừng nào!

 

 

CHƯƠNG 32

TÂM TƯ TRONG TÙ. BỐ VỸ NGHĨ VỀ NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN M̀NH QUEN BIẾT NGÀY XƯA VÀ BÂY GIỜ

 

        Ở trong pḥng giam này, nhiều lúc không phân biệt được ngày và đêm.

        Tiếng chó sủa trong làng ngoài xóm vẳng vào đây chẳng nghĩa lư ǵ: cái giống loài ba phải nông nổi ấy có thể gâu gâu sủa bất cứ lúc nào khi thấy có bóng người bóng ma…

        Thật kỳ lạ. Nó có công với con người đến thế mà vẫn bị giống người nguyền rủa, khinh rẻ. Tiếng mèo kêu rất hiếm khi nghe thấy, một đôi lần trên mái nhà… Tiếng dế kêu tỉ tê, năn nỉ ngoài hè sân kia, chẳng hiểu sao lại khiến thầy cảm nhận ra màn đêm đang bao phủ trần gian và h́nh như c̣n có cả ánh trăng đang rọi chiếu. Ôi! Ánh trăng vàng từ thuở ấu thơ, đêm đêm theo ta lớn lên len vào giấc mơ, như thuốc mê làm dịu cơn đau người bệnh khi ta trực đêm canh giấc cho bệnh nhân sau ca mổ ở nhà thương Thanh Hoá!

        Và tiếng gà! Tiếng gà vang lên trong xóm. Thầy nôn nao nhớ nhà, nhớ ông bà, cha mẹ… Nhớ buổi sáng nào thầy được đánh thức dậy khi sương sớm c̣n lăng đăng ngoài trời, trước sân; con gà trống đập cánh bên chuồng trâu, gà mẹ dẫn bầy gà con tục tục ra vườn kiếm ăn… Bà nội con đă thức dậy từ canh tư. Ngước nh́n trăng già cuối tháng trên mái bếp, lơ lửng phía đông ngoài biển kia mà cứ tưởng đâu mảnh trăng liềm đầu tháng ngây thơ tinh nghịch, đồ chơi của con trẻ bỏ quên đi c̣n rớt lại chiều tối qua trước sân nhà... Bà nhen bếp lửa sớm, gói sẵn đùm xôi nếp để con trai mang theo đi đường lên tỉnh học. Bà bảo, họ Mai nhà ta xưa, Cố ông đậu tới Thám hoa, ngày nay con gắng chăm học để đậu lấy cái bằng Thành chung, đừng để người đời chê cười, mang tiếng là con cháu ḍng họ Nho gia... Và thầy đă không phụ ḷng cha mẹ. Cái năm Mậu Dần 1938, cả tỉnh Thanh chỉ có ba người đậu đíp-lôm; thầy là một trong ba người đó…

        Khi chọn nghề, ông nội muốn con ḿnh làm nghề giáo, dạy chữ cho con cái nhà người, may c̣n được khoẻ nhẹ thân xác… Bà th́ lại mong con ḿnh học nghề y, làm ông đốc tờ chữa bệnh cứu người. Dạy học và chữa bệnh, hai nghề vốn bẩm sinh, lưu truyền đă bao đời, phụng sự cho dân ta, nghề nào cũng hiền lương cứu độ cả. Vậy mà, có ai ngờ đến cái thời buổi trời long đất lở này lại lật ngược, đánh tráo cả Chân, Thiện, Mỹ: chữa bệnh cứu người mà lại quy thành đổ bệnh, giết người!

Làm nghề giáo vậy mà ít nguy hiểm hơn. Thế mới biết ông nội con là người nh́n xa thấy rộng!

        Thầy lại khóc, lại thương cho thân ḿnh, vợ con ḿnh.

        Khóc hết hơi, cạn nước mắt rồi đờ đẫn nh́n quanh pḥng giam. Những ngày đầu mới bị bắt, họ nhốt giam thầy ở cái điếm canh; sau đó, suy tính thế nào họ lại chuyển thầy tới chỗ này. Đây chính là đ́nh làng xưa, nơi các bậc tiên chỉ cùng dân làng hội họp, lễ tết… Cái đ́nh này c̣n tồn tại đến bây giờ đă trở thành hiếm hoi, bởi khắp nơi xứ Thanh Hoá, từ khi Dân chủ Cộng hoà lên, người ta đă đập phá cho kỳ bằng hết. Một mái bên đă sạt lở hư hại, c̣n lại cái pḥng xưa kín như bưng của ông Từ giữ đ́nh, coi kho là vẫn y nguyên. Tường gạch dày chắc, cột lim tṛn to đùng, cánh cửa lim c̣n lớn và nặng bằng mấy cửa nhà ta… Chọn nơi này làm pḥng giam nhà tù, mấy ông bà Đội Cải cách quả là khôn ngoan sáng suốt.

        Thầy miên man nghĩ tới những nhà tù của thực dân, đế quốc. Những tên gọi dẫu xa lạ, đă mấy ai trông thấy, mà sao vẫn gần gũi quen thuộc: Hoả Ḷ, Côn Đảo, Lao Bảo, Kontum, Sơn La, Ban Mê Thuột, Thừa Phủ, Vinh… Một số người quen biết, thân thuộc của ḿnh cũng đă bị tù đày ở những nơi ấy. Cụ Đinh Chương Dương, cụ Trần Thị Nam, ở nhà tù Hoả Ḷ. Cụ Đinh Chương Dương, bị Pháp cắt gân chân; cụ Trần Thị Nam có người con duy nhất là Trần Nhu, từ Liên Xô về nước cũng bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo và chết ở ngoài ấy… Cụ Dương mới mất gần đây. Cụ Nam vẫn c̣n sống. Và năm anh em ruột họ Đào… Anh cả Đào Duy Anh vào nhà lao Thừa Phủ, em trai thứ tư Đào Duy Dếnh ở nhà tù Sơn La… Em trai thứ nh́ Đào Duy Phiên, em trai thứ ba Đào Duy Kỳ và đặc biệt, cô em gái út Đào Thị Đính, cả ba người này đều bị đày ra Côn Đảo…

        Làm sao có thể quên mà không nhắc tới các anh Cao Hữu Duyệt, Trịnh Hữu Thường, Trần Mai Ninh, Thôi Hữu… Cả bốn đồng chí đều bị Pháp bắt tù, đày Lao Bảo. Anh Duyệt vào Đảng từ đầu năm 1930, làm Bí thư chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của trường Quốc học Huế. Chưa học xong đệ tứ niên, mới 19 tuổi, chỉ vài tháng sau đó bị Pháp bắt, xử án tù 9 năm, đày lên Lao Bảo. Hai anh Trần Mai Ninh, Thôi Hữu là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Anh Trịnh Hữu Thường, điềm đạm, sâu sắc, nhân hậu… Ôi! Những con người quư giá vô ngần! Đă được gặp các anh rồi th́ suốt đời không thể nào quên!

        Nghe những đồng chí này kể th́ thực dân Pháp nhốt giam họ trong xà lim, chuồng sắt, dưới hầm sâu ḷng đất; vậy mà gặp cơ may, được tổ chức, có người vẫn vượt ngục thành công. Trở về giữa ḷng dân, được dân giấu kín trong buồng, che chở dưới hầm sâu bí mật, th́ cứ việc an tâm mà hoạt động cách mạng, say sưa lạc quan chiến đấu cho lư tưởng Cộng sản. Đế quốc phong kiến nào muốn truy lùng bắt giam họ lại cũng không phải dễ! Trường hợp anh Huỳnh Ngọc Huệ là một minh chứng cụ thể. Vượt ngục Daklay ở Kontum xong, trở về sống với đồng bào Thượng, không chỉ được bà con nuôi sống, họ c̣n giúp anh t́m đường ra tới Thanh Hoá. Ở Thanh Hoá, thuận lợi hơn, t́nh cờ và may sao, anh lại được bác Cao Hữu Lẫm, anh ruột Cao Hữu Duyệt, cưu mang cất giấu trong nhà. Huệ với Duyệt là đồng chí, biết quen nhau từ hồi Huệ c̣n học trường Kỹ nghệ thực hành, c̣n gọi là trường Bách Công ở Huế. C̣n thầy và bác Lẫm là đồng nghiệp, cùng là thầy thuốc ở nhà thương Thanh Hoá. Tại nhà bác Lẫm, trong thành Thanh Hoá, thầy đă được gặp các anh Cao Hữu Duyệt, Cao Hữu Hiến, Huỳnh Ngọc Huệ, Phạm Triều, Trần Mai Ninh, Thôi Hữu… Cái t́nh của họ ḿnh đă thấy và tiếp nhận. Cái ḷng của họ ḿnh đă cuốn hút theo từ những tháng năm ấy…

        Phải kể cho con biết thêm về người vợ hiền của bác Lẫm - Nguyễn Thị Chinh, người đàn bà xứ Huế nhân đạo, thâm trầm, kín đáo, có lẽ không biết ǵ mấy về chủ nghĩa Cộng sản, thầy e chừng vậy, mà vẫn coi những đồng chí của em trai chồng ḿnh như người thân yêu ruột thịt, nuôi giấu họ trong nhà… Giữa thời buổi đen tối hiểm nghèo ấy mà có những người tự nhiên dám sống như thế thật sự là những người can đảm!

        C̣n bây giờ… cái người khi không trở thành có tội với dân, kẻ thù của Đảng như Mai Duy Vỹ đây, th́ đành chịu cứng, chỉ c̣n biết nằm yên chờ… ngày Đội tới dẫn đi cho ăn “viên kẹo đồng”!

        Mà đâu phải chỉ riêng thầy, bác Trần Vĩnh Quyền, Chủ tịch xă bị bắt nhốt giam bên Nga Phú kia, cách mấy cây số đường chim bay chắc cũng đang nghĩ như thầy: Đây mới chính là Địa ngục Trần gian, nơi cùng trời cuối đất, chỉ c̣n mỗi con đường đi qua thế giới Bên Ấy…

        Mấy ngày trước khi bị bắt, chẳng biết nguồn tin nào từ đâu ra đến tai thầy.

        Bác Nguyễn Xuân Thuư, Thường vụ Tỉnh uỷ, cựu tù Côn Đảo những năm 30, bây giờ cũng trở thành một tên phản động đội lốt Cách mạng, vừa mới bị bắt, đă vào… tù!

        Anh Đỗ Vân, bác sĩ, Trưởng ty Y tế Thanh Hoá, cựu sinh viên Đại học Y khoa Hà Nội, một thầy thuốc mà cả về nhân cách lẫn tài năng, bố Vỹ của con rất mến phục. Đỗ Vân là em ruột của Đỗ Thị Xuyến, dược sĩ hạng nhất Đông Dương; bà Xuyến là vợ của luật sư Phan Anh, bộ trưởng…

        Đỗ Vân bị kết tội giết người hàng loạt bằng thuốc độc và dao kéo, cũng đă bị bắt trói, đưa vào… tù!

        Anh Đặng Ngọc Khôi, bác sĩ trẻ lớp sau thầy, nổi tiếng v́ bàn tay phẫu thuật tài hoa, cũng bị kết tội cưa chân, chặt tay hàng loạt các chiến sĩ ngoài mặt trận và là thủ phạm của mấy vụ giết hại các đồng chí lănh đạo cao cấp đầy mờ ám hiểm độc.

        Khôi là con bác Đặng Ngọc Thọ, y tá giỏi thời Pháp, đă từng làm ở nhà thương Thanh Hoá, tính t́nh nhanh nhẹn bộc trực. Năm khởi nghĩa 1945, nghe nói bác Thọ bị Việt Minh ta giết v́ tội danh làm… Việt gian!

        Khôi cũng vừa bị tóm bắt vào tù cùng một đợt với Đỗ Vân.

        Chưa hết! Cao Hữu Hiến, Trưởng ty Lao động Thanh Hoá vừa mới bị bắt giam mấy ngày sau khi Nguyễn Xuân Thuỳ vô tù. Chú Hiến ít hơn thầy một tuổi nhưng vào Đảng sớm hơn, từ những năm đầu 40. Bạn học cùng trường Bách Công ở Huế với Huỳnh Ngọc Huệ, em út của bác Cao Hữu Lẫm và bác Cao Hữu Duyệt… Chú Hiến đă hăng hái tham gia cuộc biểu t́nh đón Gô-đa thời Mặt trận B́nh Dân, có lần ngang nhiên lên Bến Ngự thăm cụ Phan Bội Châu giữa ban ngày ban mặt, chẳng thèm để ư ǵ tới bọn chó săn mật thám của Pháp ŕnh rập quanh đó!

        Chàng trai sôi nổi gan góc họ Cao này đă từng đảm trách cương vị quan trọng của Ty Liêm phóng trong những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, truy đuổi lùng bắt bọn phản động chống phá nền Dân chủ Cộng hoà non trẻ, tên tuổi được nhắc đến như một huyền thoại trinh thám…

        Người Cộng sản trung thành cuồng nhiệt với lư tưởng Cộng sản đă từng chịu những đ̣n roi tra tấn trong lao Thừa Phủ, ngục Kontum thời Pháp thuộc, bây giờ… được tính công trả ơn bằng những ngón đ̣n thẩm vấn quái lạ, những h́nh phạt khổ nhục học theo Tàu c̣n man rợ ngàn lần hơn thực dân Pháp… Cải cách Ruộng đất, Chỉnh đốn Tổ chức long trời lở đất đă quy chụp cho đồng chí này một tội danh mới chưa từng có trong lịch sử nhân loại, chẳng mảy may ǵ liên quan đến luật pháp của thế giới - Chống Đảng và phá hoại Cách mạng!

        Đột nhiên, h́nh ảnh các đồng chí Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ… hiện lên.

        Hồi Cách mạng tháng Tám, tại Pḥng Thông tin Thanh Hoá thầy được thấy h́nh ảnh của những người này. Những tấm ảnh của bọn Pháp ghi lại chân dung họ trong tù gây cho thầy một niềm kính trọng thiêng liêng. Đôi khi thầy vẫn cố tưởng tượng h́nh dung ra những khuôn mặt đẹp cao quư của họ mà ḷng ngập tràn vui sướng, tự hào. Ḿnh với họ đều là đồng chí. Thầy tự nhủ. Đến với Đảng Cộng sản khi đất nước c̣n tối tăm nô lệ, họ là những “nhà cách mạng” đúng theo nghĩa của ba từ này, c̣n ḿnh đến với Đảng khi nước nhà đă độc lập, tự do, ḿnh chỉ là “người đi theo Cách mạng”. Bởi vậy ḿnh sẽ không tiếc sức, tiếc của, hiến dâng tất cả đời ḿnh cho Cách mạng để xứng đáng với họ, xứng dáng với danh nghĩa “đồng chí”… Cái ḷng thầy là như thế đó, con ơi!

 

 

 

CHƯƠNG 33

CHUYỆN MỔ XẺ THỜI CHIẾN TRANH

CHỐNG PHÁP. NHỮNG CA MỔ RUỘT THỪA

ĐẦU TIÊN CỦA BỐ VỸ, NGƯỜI THẦY

THUỐC TÀI HOA ƯU TÚ

 

        Có một lần mẹ của con dằn dỗi về chuyện lâu nay chồng ḿnh bỏ bê con cái, phó mặc việc nhà cho bà ấy.

        “Ông đâu có thương vợ con, mẹ nói, ông chỉ xót cho vợ con nhà người thôi; việc nhà th́ nhác, việc chú bác th́ siêng… Bệnh viện mới là nhà của ông, nhà mẹ con tôi chỉ là cái quán trọ để ông ghé về ăn cơm… Có hôm vợ con chờ suốt cả ruột, cơm th́ nguội lạnh, thịt cá thiu thối, ông cũng không chịu về ăn, ông c̣n xách túi đi khám bệnh chích thuốc cho người ta, ông c̣n mắc họp. Thiên hạ đau, đồng chí đau th́ ông thương xót lắm; c̣n vợ con ở nhà đau th́ ông bảo không can chi, uống ít viên thuốc, chỉ vài hôm thôi là khỏi… Tôi xem ra cái phúc nhà này lớn lắm đấy!”

        Mẹ nói rồi khóc lóc. Thầy muốn điên lên. Thầy nghiến răng đấm ngực la: “Trời ơi, bà muốn cho tôi sống hay là giết tôi đi! Con bệnh đang cơn đau, tôi không khám chữa chích thuốc, bỏ mặc đó để người ta chết à? Cuộc họp có mặt các đồng chí đông đủ cả, không lẽ thiếu vắng ḿnh tôi sao? Bà có đi họp thay cho tôi được không?”

        Mẹ gào lên: “Họp sống họp chết, họp cái chó ǵ họp lắm thế? Sao lâu lâu không bớt đi vài cuộc họp ở nhà cho vợ con nhờ?”

        Thật quá thể! Quá thể! Có ai đời vợ ḿnh lại ngoa ngoắt, tục tằn xúc phạm chồng đến thế, lại c̣n to gan động chạm tới đoàn thể, chính trị nữa. Thầy mới vung tay tát cho bà ấy một cái. Cái tát mạnh đến nỗi mẹ ngă ngửa, đầu đập vào cây cột, ngất xỉu dưới nền nhà…

        Từ dạo lấy nhau tới giờ, đây là lần đầu tiên vợ chồng căi cọ to tiếng. Cũng là lần đầu tiên trong đời thầy đánh người, mà đánh ai, đánh vợ ḿnh! Ôi khốn khổ, khốn nạn!

        Thầy đùng đùng bỏ nhà, ra ngoài đường đi một ḿnh giữa ơn giông. Gió quất liên tiếp những roi mưa vào mặt; nước mắt trời tuôn hay lệ ai đang xối xả ướt đầm hai hốc mắt, g̣ má hơm hóp lâu ngày thiếu ngủ? Đứng lại giữa đường, đưa hai tay vuốt, thầy mới sực nhớ ra là ḿnh đă quên tấm ni lông che mưa ở nhà.

        Cũng may, lại đúng lúc bệnh viện cho người tới nhà t́m thầy lên mổ ca cấp cứu cho một bệnh nhân chẩn đoán đau ruột thừa. Thầy gặp anh lao công. Cả hai che chung tấm ni lông lên đầu cùng vội vă đi.

        Ca mổ trầy trật cả tiếng đồng hồ. Mổ xong, thầy nằm vật ra giường ngủ thiếp đi như vừa bị đánh thuốc mê…

 

        Hồi ấy, những năm 48-50… khái niệm mổ xẻ kinh hoàng rùng rợn lắm, con ơi!

        Người ta chỉ dám nghĩ tới chuyện cắt cục amiđan trong họng. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp không cầm được máu, bệnh nhân đành phải chịu chết. Thuốc men quư hiếm, công cụ y tế thô sơ, kỹ thuật mổ xẻ c̣n yếu kém lắm. Bệnh viện không có điện, không có máy phát điện. Tại bệnh viên “Cổ Định” - Nông Cống, để soi khám hai cục amiđan trong họng, người ta phải dùng tới ánh đèn xe đạp. Thầy kể cho con nghe nhé. Một y tá cầm pêđan xe đạp quay mạnh để b́nh điện cọ vào lốp xe làm cho đèn xe bật sáng… Đèn xe được đặt trước mặt bệnh nhân; bệnh nhân há mồm to ra để bác sĩ ngồi phía sau đèn nh́n vào… khám xét hai tên lính gác thực quản và phế quản. Giáo sư bác sĩ Trần Hữu Tước từ Pháp về cùng với những người học tṛ ưu tú của ông, các bác sĩ, đều làm việc trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn như vậy.

        Cưa cắt tay chân thương binh, người bị tai nạn chiến tranh là điều người ta có thể hiểu và chấp nhận. C̣n chuyện lên bàn mổ nằm để bác sĩ cầm dao rạch bụng… ít ai dám nghĩ tới, cầm bằng cái chết chắc chắn chín mươi phần trăm, coi như là… định mệnh!

        Nhiều người lên cơn đau ruột thừa không có ai khám và mổ cho đành phải ôm bụng chờ chết. Vũ Hồng Côn, học sinh trường Cấp 3 Lam Sơn, cậu con trai dễ thương thông minh của nhà văn Vũ Ngọc Phan và nhà thơ Hằng Phương đă chết v́ căn bệnh ruột thừa; một bằng chứng đau thương của y tế nước ta thời chiến tranh chống Pháp!…

        Thuở nhỏ, thầy rất sợ máu. Những ngày giỗ tết, không dám cầm dao cắt tiết, mổ bụng gà vịt, cứ phải để cho anh Nuôi và chú Đông làm công việc khủng khiếp đó. Khi học ở trường Y khoa Hà Nội thầy cũng chỉ được đôi lần đứng phụ mổ đưa bông băng dao kéo cho bác sĩ người Pháp.

        Cuối năm 1946, toàn quốc kháng chiến, thầy phải ra mặt trận để phục vụ các chiến sĩ Vệ Quốc quân. Cái cảnh thương binh ùn ùn khiêng chở từ mặt trận về nằm la liệt ở Quân y viện thật không tài nào kể xiết. Máu chảy chan hoà nước mắt… Không cưa chân, không cắt tay làm sao được! Cưa cắt may ra anh em họ c̣n sống! Mà đâu chỉ chân tay, đầu cổ, lưng ngực… Tất cả những bộ phận sinh ra để cho con người ta sống, chiến tranh đều dùng tới Cái Chết để huỷ hoại, tàn sát! Nh́n thấy ruột gan trong bụng thương binh ḷng tḥng xổ ra, dù có rùng ḿnh kinh hăi, cũng phải mau mau bắt tay vào cắt hớt, may khâu lại… Phải làm tất cả để dành lại Cái Sống cho đồng chí, đồng bào!

        Những lần đầu thầy cũng run tay, đêm tới chợp ngủ chỉ mơ thấy toàn máu… là máu.

        Vậy rồi mà, chỉ mấy tuần trôi qua là bắt đầu quen với máu, nói cho đúng hơn, là thuận tay, lên tay mổ xẻ. Tất cả chỉ v́ tấm ḷng thôi, con ơi!

        Thầy thương các đồng chí, chiến sĩ, một t́nh thương chưa từng bao giờ thấy, ngay cả đối với vợ con gia đ́nh… Tổ quốc và Cách mạng đă sinh ra Mai Duy Vỹ một lần thứ hai và hun đúc t́nh thương ấy trong con người thầy thuốc! Phải cứu những anh em đồng chí khỏi cái chết, giành lại mạng sống, đưa họ về với gia đ́nh vợ con!

        Những ánh mắt, lời nói tỏ ḷng biết ơn khâm phục của thương bệnh binh và các bạn đồng sự trong Quân y viện đă giúp thầy quên bao mệt nhọc, thức thâu đêm suốt sáng cầm con dao mổ…

        Quân y viện trưởng Trần Thế Đức, bác sĩ tốt nghiệp đại học Y khoa Hà Nội… lớn hơn thầy cả tuổi đời, tuổi nghề, học rộng biết nhiều, bác sĩ Đức già dặn về bệnh lư nhưng không hiểu sao lại non tay về phẫu thuật? Về quan hệ nghề nghiệp thầy là cấp dưới, là học tṛ của ông ấy. Từ chỗ dè dặt trong cách cư xử, dần dà Đức mến thương thầy như người thân ruột rà… Sau này, trong một lần giao tiếp, bác sĩ nói: “Anh Vỹ, anh có qua lớp phẫu thuật với một giáo sư nào không? Có biết bác sĩ Lơ-roa-Đề-ba ở Hà Nội không?” Thầy lắc đầu cười nhũn nhặn. Thế th́ lạ thật đấy. Đức tần ngần nh́n thầy. “Anh đưa bàn tay tôi xem… Đúng là có hoa tay, tiếc cho anh chưa được học lên”…

        Ca mổ ruột thừa appendicite đầu tiên, thứ nhất trong đời thầy không phải dành cho ai khác mà chính là Trần Thế Đức. Thật kỳ lạ. Nhớ lại ngày hôm ấy… Đức lên cơn đau bụng sau buổi ăn trưa, quằn quại tới chiều và tự chẩn đoán ḿnh đau ruột thừa. Dạo ấy thầy chỉ quen cưa tay chân, chưa một lần mổ bụng ai và cũng chỉ mường tượng… về cái ruột thừa. Thời Pháp, chỉ có các bác sĩ mới được cầm dao mổ. Một y sĩ như thầy làm sao dám đụng tới! Quân y viện trưởng động viên thầy: Anh Vỹ, mạnh dạn lên, không sao đâu! Anh không mổ th́ tôi cũng chết. Mổ đi! Tôi tin anh làm được. Tôi chịu trách nhiệm. Đức lại c̣n khôi hài: Th́ cũng như mổ gà, cắt cái khúc ruột ấy bỏ đi, thế thôi… Anh đă mổ gà nhiều lần chưa? Thầy thú thực rằng chưa, hồi nhỏ rất sợ cắt tiết, mổ ḷng gà vịt…

        Ca mổ được tiến hành vào 8 giờ tối.

        Số phận dành cho đời thầy những món quà tặng về ban đêm. Ban đêm khi đầu óc con người ta phần nhiều mệt mỏi, lầm lẫn th́ đầu óc thầy chẳng hiểu sao lại thông suốt, bàn tay lại khéo léo chuẩn xác lạ lùng. Dưới ánh sáng của ba chiếc đèn pin tụ lại, thầy cầm dao rạch phía bên phải bụng bác sĩ Đức và… thật kỳ lạ, cái ư nghĩ ruột người ta cũng giống như ruột gà làm cho thầy tỉnh táo, chẳng mấy chốc t́m ra ngay cái ruột thừa ẩn núp, bám đeo vào…

        Trông nó như một tên tội phạm lẫn trốn, bị truy t́m ra rồi mà vẫn cho rằng ḿnh vô tội. Tôi cũng là một bộ phận của con người, làm ra con người. Tạo Hoá chẳng đă cùng sinh ra một lần cho con người hay sao? Vậy mà các người chưa hiểu đầy đủ về tôi!

        Có tiếng nói nào bên trong vang lên… Bàn tay ai sinh ra lỡ như có 6 ngón, sao các người không cắt ngón thứ 6 đó đi! (Thật bất công và vô lư!).

        Nhưng ruột thừa ơi, mày đă làm mủ rồi và đang gây ra cái chết chắc chắn cho con người. Hiểu chưa? C̣n ngón tay thứ 6 kia, nó xấu xí và vô ích thật đấy, nhưng nó lại không gây ra hiểm họa như mày; dẫu rằng nó cứ phô ra trước mặt mọi người chẳng cần che giấu th́… chúng ta cứ để yên cho nó tồn tại!

        Đời là vậy! C̣n biết bao nhiêu cái thứ 6 quái gở, cấn cái, vướng víu cho con người, e rằng có khi con người chết rồi đă chắc ǵ nó sẽ chết theo?

        Thầy cắt cái ruột thừa đó quả quyết và nhanh gọn c̣n dễ hơn người ta hái đi một quả thối trên cây.

        Chiều hôm sau, khi đă tỉnh táo hẳn, bác sĩ Đức nói với thầy: Tôi nói có sai đâu. Anh cắt ruột thừa c̣n dễ hơn mổ bụng gà. Đôi mắt hiền hậu thâm trầm sáng lên, bàn tay ông ấy đặt lên bàn tay thầy. Anh đúng là một thầy thuốc bẩm sinh, trời phú… anh Vỹ ạ. Sau này kháng chiến thành công, c̣n sống trở về Hà Nội, tôi sẽ kể cho vợ con nghe. Chúng nó sẽ ghi nhớ, đền ơn anh…

        Bác sĩ Đức có hoàn cảnh hơi éo le. Cô vợ trẻ đẹp của ông nghe nói là con một gia đ́nh giàu có ở Hà Nội. Gia đ́nh theo bác sĩ chạy giặc, tản cư vào tới Thanh Hoá. Đời sống ở hậu phương, vùng tự do lúc ấy gian khổ không sao chịu đựng nổi đă khiến họ phải quay trở lại Hà Nội “dinh tê” vào Thành. Cuộc chia tay diễn ra… Bác sĩ Đức một ḷng đi theo Quân đội, ở lại với Cụ Hồ. Chắc ông ấy buồn khổ lắm.

        “Chiến tranh là chiến tranh”. Bác sĩ nói với thầy bằng tiếng Pháp. “Con người chẳng phải là ma quỷ, cũng chẳng phải thánh thần. Anh Vỹ ạ, khi giết người, có ai nghĩ mạng người là thần thánh đâu. Giết là giết! Thế thôi!

        Người thầy thuốc giàu t́nh cảm thôi chưa đủ, anh ta c̣n phải mạnh mẽ về lư trí. Bởi thế, đôi khi rất khó chữa bệnh cho bản thân và người nhà; ấy là chưa nói tới cầm dao mổ cưa cắt, phẫu thuật chính vợ con ḿnh… thường những lúc ấy anh ta phải nhờ người khác làm hộ. Bọn ḿnh ở chiến trường lại càng phải đ̣i hỏi cao. Chỉ thương cảm xúc động anh em thương binh thôi mà thiếu tỉnh táo, thậm chí đôi khi c̣n phải lạnh lùng nữa, chứ không th́ công việc hỏng hết!”

        “Chiến tranh là chiến tranh”. Bác sĩ Đức nhắc lại câu tiếng Pháp với nụ cười buồn bă.

        Ông ấy là một con người hoàn thiện hơn thầy nhiều do có được đức tính điềm tĩnh đôi khi đến lạnh lùng đó.

        Có lần, thấy thầy khóc bên giường một anh chiến sĩ đă chết v́ vết thương quá nặng ở ngực, máu chảy cạn kiệt… bác sĩ yên lặng đứng một lúc lâu rồi nhẹ nhàng đặt tay lên vai thầy. “Đồng chí Vỹ”. Bác sĩ nói. Hai tiếng “đồng chí” làm thầy nhớ lại, cả hai người, thầy và ông ấy cùng được kết nạp Đảng vào dịp cuối năm 1948, lúc mọi người đang chuẩn bị ăn Tết Xuân Kỷ Sửu. “Đồng chí Vỹ! B́nh tĩnh nào. Chúng ta c̣n nhiều việc phải làm.” Rút tay ra khỏi vai, thầy c̣n nghe tiếng thở dài sâu kín của bác sĩ.

        Thầy có một người bạn đồng nghiệp, người anh đáng quư đến như thế.

        Tiếng vang về những ca mổ ruột thừa của thầy lan truyền đi khắp các đơn vị, khắp tỉnh Thanh. Có người gọi thầy là Hoa Đà tái thế, là Tôn Thất Tùng của Thanh Hoá.

        Bác sĩ Viện trưởng cũng vui lây cái vui của mọi người. Ông ấy cũng cầm dao mổ, bởi v́ không mổ cũng không được, con số thương binh mỗi ngày một nhiều.

        Một lần xong ca mổ, rửa tay xà pḥng, Đức gật đầu cười nói: “Có anh Vỹ đứng bên, tôi mới thực sự yên tâm cầm dao đấy, các đồng chí ạ. Chúng tôi là cặp anh em song sinh mà!”

        Cả pḥng mổ, anh chị em y tá cười theo. Ôi! Những giây phút đầm ấm t́nh người, t́nh đồng chí… làm thầy quên đi tất cả nỗi mệt nhọc lo lắng trên đời. Những giây phút sáng tươi, hạnh phúc.

 

 

 

CHƯƠNG 34

CA MỔ RUỘT THỪA CHO JACQUES,

HÀNG BINH PHÁP. PHÚC HOẠ KHÔN LƯỜNG

 

        Có một lần, lần này khá đặc biệt; ấy là ca mổ ruột thừa cho một hàng binh Pháp tên là Jacques, con một nông dân nghèo ở Provence. Ông nội bị bọn Đức giết hồi chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Jacques chỉ mong sao chiến tranh Việt Nam mau kết thúc để trở về quê hương. Giữa năm 1948, Jacques bỏ quân đội Pháp, chạy sang hàng ngũ ta, được đưa từ Hoà B́nh về… Jacques không muốn cầm súng nữa, và thể theo nguyện vọng của anh hàng binh Pháp, Chính uỷ Trung đoàn sắp xếp cho anh ta được làm “y tá” ngay trong đơn vị của thầy. Y tá là nói cho vui, cho ra vẻ, cũng như Toành, khiêng cáng, băng bó là chủ yếu. Và Jacques đă làm việc hết ḷng, không tiếc sức…

        Chẳng biết Quỷ xui Trời khiến thế nào, ca mổ cho Jacques cũng là… ruột thừa!

        Bước vào pḥng mổ bác sĩ Đức nhún vai, cười nói: “Anh Vỹ, ca mổ này chúng ta phải hoàn thành thật tốt, không chỉ để cho nhân dân Pháp thấy rằng, dù cuộc chiến tranh đẫm máu do chính họ gây ra trên đất nước ta, chúng ta vẫn không đánh mất đi t́nh cảm con người, t́nh hữu nghị giữa hai dân tộc. Mà c̣n hơn thế, để cho nước Pháp của Louis Pasteur, Alexandre Yersin hiểu rằng, những công lao và tri thức của các thầy thuốc Pháp ở trường Y khoa Hà Nội không phải là uổng phí”.

        Sau ca mổ, được cứu sống, cái t́nh cảm của Jacques đối với những người anh em Việt Nam quả là không kể xiết. Hai lần thoát chết, cái ơn nặng trên đầu, trên vai anh hàng binh Pháp khiến chàng ta nhiều khi không kiềm chế được xúc động. Thấy thầy ở đâu, Jacques cũng muốn dừng lại để… nói chuyện!

        Trong đơn vị bộ đội chỉ có bác sĩ Đức và thầy là nói chuyện được với Jacques bằng tiếng Pháp.

        Y tá Toành nhiều lần bắt gặp Jacques và thầy chuyện tṛ. Mặc dù chẳng biết lấy một chữ Tây, Toành đôi lúc vẫn cố t́nh kéo ghế ngồi sát bên hóng chuyện, theo dơi…

        Đó là chứng cớ Trời cho, Đội khiến để sau này Toành tố giác thầy trên đấu trường:

        “Vỹ! Chính mi đă nhiều nần âm mưu thông đồng với Pháp!

        Ngày xưa Pháp dạy mi lói tiếng Tây để mi giao dịch với chúng ló, rồi nại c̣n dạy mi cầm dao mổ để rạch bụng, giết hại chiến sĩ đồng bào ta! Có đúng không?

        Chính mi đă nhiều nần lói chuyện với thằng Tây Giắc. Mi lói ǵ hồi ấy mi tưởng tao không biết hả? Thưa bà con lông dân, thằng Vỹ với thằng Tây Giắc, hai đứa cùng giơ cao tay nên trời như thế lày lày, xong rồi nại c̣n cúi đầu chọc chọc hai ngón tay xuống đất. Rồi cười hà hà! Cười cái ǵ? Cười cái mả cha chúng bay hả? Chúng ló nại “ùm ùm oàng oàng” ra hiệu thông đồng với nhau, báo cáo mật cho Tây ló biết, để Tây ló đưa máy bay đến bỏ bom vào đơn vị quân đội chúng ta đấy bà con lông dân ạ. Bà con có biết không? Thế lày chứ… Có nần thấy tôi đến bên thế nà hai đứa im bặt, nấm nét đưa mắt nh́n nhau. Tôi mới nghĩ... Chúng mày giấu nàm sao lổi tao, có mà ông đi guốc vào trong bụng chúng mày! Tao biết hết!

        Thưa bà con lông dân, quân Chủ nực của Cách mạng! Thằng Vỹ ló cấu kết với đế quốc Pháp để giết hại bà con như thế đấy bà con ạ!”

        “Đả đảo! Đả đảo!”

        Tiếng đả đảo vang lên, trời long đất lở khắp cả đấu trường.

        Thầy ngẩng đầu lên nh́n Toành, mặc dù lệnh của ông Đội trưởng và yêu cầu của Quân Chủ lực Nông dân là “tên Vỹ phải cúi đầu xuống”.

        Thầy nh́n Toành bằng ánh mắt ngạc nhiên hơn là căm thù. Có thể cái hôm ấy lúc kéo ghế ngồi bên cạnh Vỹ và Jacques, Toành đă tin một cách thành thật và ngây thơ như thế chăng? Ừ có thể lắm. Ôi trời cao đất dày! Địa ngục Trần gian này thật đen tối man rợ khôn cùng!

        Toành cúi đầu xuống, tránh cái nh́n của thầy. H́nh như anh ta nhận ra chẳng phải riêng thầy mà chính ḿnh nữa, đều là những con người. C̣n con quỷ vừa sinh ra, mới trỗi dậy trong người Toành, th́ chính anh ta cũng không biết nó ở đâu ra, từ đâu tới? Và Toành luống cuống…

        Nhưng rồi nghĩ cho cùng th́ Toành cũng chỉ là loại kư sinh trùng ăn theo bé li ti, đă thấm tháp nhầm nḥ ǵ so với bọn khổng trùng kư sinh khủng khiếp cỡ Lê Xuân Tái, người cầm đầu công cuộc Cải cách Ruộng đất trời long đất lở của cả Thanh Hoá quê ta!

        Tái quê đâu ở Thiệu Hoá, nguyên là anh cấp dưỡng bếp núc cho mấy ông Tỉnh uỷ, mới qua khỏi nạn mù chữ, được Đội bồi dưỡng kết nạp Đảng, bỗng nhiên vụt dậy như một hung thần, giương cao liềm búa của hai Bác Xít-Mao, giáng Cái Chết xuống đầu các bậc tiền bối Cách mạng, vô hiệu hoá loại trừ tất cả các cựu đảng viên Cộng sản ra khỏi hàng ngũ đồng chí, xua đuổi tống cổ sang hàng ngũ bè lũ quân phản động chống Đảng, phá hoại Cách mạng!

        Tái trở thành Thần Chết, nỗi lo sợ khủng khiếp của toàn thể cán bộ đảng viên tỉnh Thanh Hoá.

        Mọi cử động hành vi của hắn: lắc đầu, gật đầu, xua tay, mím môi, nhăn mặt, hắt hơi, cười kh́, trợn mắt… và nhất là chữ kư ngoằn ngoèo, ṿng lên hay quặp xuống như con sâu, con ốc… đều có ảnh hưởng quyết định tới số phận sống chết con người.

        y là chưa kể tới những tên đồ tể lừng danh mà Trời nghe Trời cũng giật ḿnh: Đặng Thí trong Liên Khu Tư, Hồ Viết Thắng ngoài Trung ương… Mấy anh này có thể ngủ gật, vừa chơi cờ tú lơ khơ mà… kư duyệt án tử h́nh cả mấy cái cùng một lúc!

        Vậy th́ để bụng, trách cứ làm chi cái thứ y tá Toành này!

        “Đả đảo! Đả đảo! Có khổ nói khổ nông dân vùng lên! Vùng lên!

        Chẳng có ai đứng lên bảo vệ cho Mai Duy Vỹ cả.

        Jacques đă hồi hương về Pháp sau Hiệp định Genève.

        Bác sĩ Đức về lại Hà Nội thủ đô. Trong một bức thư gửi tay thầy nhận được ông ấy báo tin mừng ḿnh đă về kịp, đúng lúc vợ con “đang bị địch cưỡng ép” xuống Hải Pḥng, di cư vào Nam. Vợ chồng tái hợp. Hạnh phúc, sung sướng…

        “Nhà tôi gửi lời kính thăm anh. Cháu Hà, con gái tôi, nhắn mời chú Vỹ ra chơi. - Bác sĩ viết - Chúng nó dành riêng một pḥng trên gác 3 để chú Vỹ nằm và nghỉ ngơi. Ở phố Hàng Bông này dẫu có lúc ồn v́ người xe qua lại, nhưng pḥng nghỉ khuất vào phía sau, trên cao, rất yên tĩnh… Nga Sơn - Hà Nội cách nhau chẳng bao xa. Vỹ ra chơi, Vỹ nhé! Chúng tôi chờ!…”

        Đả đảo! Đả đảo!

        Quanh ḿnh thầy chỉ thấy những nắm đấm, gậy gộc, dây thừng, giáo mác, súng trường giơ lên. Bầu trời đầy mây, sũng nước. Trời sắp mưa. Từng tia chớp rạch da trời, bật loé những vệt máu. Sự thật - Chân lư cũng chỉ loé lên rồi tắt.

        Đả đảo! Đả đảo!

        Muôn năm! Mu…uôn… Nă…ăm!

 

 

CHƯƠNG 35

THỊ KÍNH VÀ CÁI RÂU MỌC NGƯỢC.

MAI DUY VỸ VỚI CÁI RUỘT THỪA

 

        Thầy trở ḿnh, nghĩ miên man. Trần gian này sao nhiều cái “Thừa” thế nhỉ?

        Nhớ chuyện bà nội con kể… Ngày xưa Thị Kính v́ quá yêu chồng, thấy chồng có cái râu mọc ngược trên cằm, cầm dao bổ cau đưa lên định cắt cái râu mọc vô tổ chức, thiếu ư thức kỷ luật đó, th́ ông chồng đang ngủ gà ngủ gật tự nhiên giật ḿnh mở mắt ra. Hắn ta la toáng lên. Rồi cả nhà hô hoán. Thế là Thị Kính chịu cái oan tày trời: Giết chồng! Con dao cau đây! Tang chứng rành rành đây!

        Hồi ấy thầy mới lên 8 tuổi. “Tại sao cô Kính không lấy cái nhíp nhổ râu cho chồng như thầy vẫn nhổ râu, hở mẹ?” Câu hỏi ngây thơ của bố Vỹ lúc ấy không chỉ làm cho bà và ông nội con cũng ph́ cười. “Thời xưa ấy làm ǵ có nhíp. Người lớn thường nhổ râu bằng cách cấu hai đầu móng tay vào chân râu rồi giật… Các bà nhà quê đôi khi lại lấy hai hạt thóc nhám kẹp lại nhổ tóc sâu tóc bạc cho nhau. Cái kẹp, cái nhíp nhổ râu… ờ h́nh như từ lúc thằng Tây nó sang đô hộ ta mới có…”

        Sau này, có lần cầm tới cái pince kẹp bông băng, gắp kim tiêm, động tay tới con dao mổ… thầy lại bâng khuâng nhớ tới Thị Kính. Ả ta đúng là một người thật thà, vụng dại, có thể nói là ngu nữa mới chuốc lấy cái oan tày trời đó.

        Ḿnh đâu có ngu dại như Thị Kính? Cái râu mọc ngược th́ kệ mẹ nó, đụng đến làm ǵ. Cũng như cái ruột thừa, nó đang b́nh thường tự nhiên th́ cứ để nó yên vị, khi nào nó sưng thối mới rạch bụng người mà cắt bỏ đi chứ!

        “Nhưng mà… bố Vỹ ơi! Có ai đây vừa lên tiếng căi lại… Thị Kính cắt râu v́ ả thấy nó mọc ngược, xấu xí, khó coi. Ả yêu chồng, muốn làm đẹp cho chồng đấy chứ! Mai Duy Vỹ cũng vậy thôi. Y sĩ mổ bụng, cắt ruột thừa là để cứu mạng sống cho con người. Ông ta thương người, không muốn con người phải chịu đau khổ, tang tóc nên mới cầm tới con dao mổ! Có đúng không?”

        Thầy lưỡng lự… Chưa biết nên gật đầu hay lắc đầu?

        Cái tiếng ai vừa nói đó tưởng đă im rồi lại cất lên:

        “Thế nhưng… đồng chí thầy thuốc kính mến ạ. Cần phải nói cho rơ thêm. Thị Kính mang cái án giết chồng mà rồi người ta đâu có xử tử h́nh! Thị chỉ phải vào Chùa nhẫn nhục tu hành một thời gian. Và sau khi chết già rồi lại c̣n được minh oan! C̣n Mai Duy Vỹ th́ sao? Sau khi để người ta đổ cái núi oan lên người, xâu vào cổ, ngoắc vào đầu… rất có thể ngày mai đây, Đội Cải cách sẽ ra lệnh cho các đồng chí Lê Trạch Đông, Hĩm Xoa, C̣ Toe, y tá Toành… tử h́nh, bắn chết!

        Ôi! Cái thời Thị Kính xưa phong kiến tối tăm u mê vậy mà pháp đ́nh lại c̣n văn minh nhân đạo hơn cái thời Dân chủ Cộng hoà đến thế!”

 

 

CHƯƠNG 36

MỔ RUỘT THỪA CHO THẰNG CU CON C̉ TOE. CÁI “NƯỠI CƯA” CỦA Y TÁ TOÀNH

        Lại ṿng vo Tam Quốc cùng Mao Chủ tịch bên Tàu sang tới Lê Trạch Đông bên ta, cùng với các đồng chí bần cố nông Hĩm Xoa, C̣ Toe, Toành… về với cái ruột thừa của thằng cu con C̣ Toe mổ cắt tối hôm đó.

        Mổ xong rồi, thầy dặn vợ chồng C̣ Toe, người nhà bệnh nhân, cho thằng bé uống nước cháo 3 ngày, sau đó ăn cháo trắng dăm ngày nữa… để vết mổ được hồi phục, trở lại b́nh thường. Cái hồi đói kém ấy, dân ta ăn cháo dăm ba ngày là chuyện b́nh thường, có khó khăn ǵ mà không thực hiện được. Nhưng chẳng hiểu sao, mới về nhà được một hôm, bà con thương cháu, có ai đó đă đem xôi và thịt lợn tới cho thằng bé ăn. Nghe đồn, lại c̣n cho ăn cả củ từ chấm mật nữa? Thế là, thằng bé lên cơn sốt, ôm bụng quằn quại. Ruột nó bục ra rồi, Trời cũng không cứu được. May ra có Đội… Nhưng năm 1952 đó làm ǵ đă có Đội! Nó chết!

        Thầy đă mất công giải thích, mấy người trong bệnh viện cũng hết lời khuyên nhủ… Vợ chồng c̣ Toe xem ra đă có phần chấp nhận thông suốt. Cái số nó Trời không cho sống, phải chết là… đúng thôi. Họ bảo nhau vậy.

        Nhưng đến cơn Trời long Đất lở, sục sôi Đấu tố này th́ bố mẹ thằng bé, vợ chồng C̣ Toe được y tá Toành mớm, ông Đội trưởng bơm… lại hùng hổ chồm lên, nhảy tới xỉa xói thầy…

        “Vỹ! Mày giết con tao! Mày rạch bụng nó ra, nhét vào trong bụng nó một lưỡi cưa làm cho ruột đứt tung. Nó mới ôm bụng kêu la từ chiều tới nửa đêm gần sáng rồi… chết?”

        Thầy ngạc nhiên không hiểu sao lại có chuyện nhét lưỡi cưa vào trong bụng? Lưỡi cưa ǵ nhỉ?

        Nhất Đội nh́ Trời! Bà con nông dân được Đội phóng tay phát động, vùng lên đấu tố th́ trí tưởng tượng ngày xưa có một… bà đẻ ra trăm trứng… có một cái nỏ chỉ cần bắn phựt một mũi tên là giết chết tới cả ngàn thằng địch… cũng đều trở nên nghèo nàn vô vị.

        Chứng cớ là, thằng Vỹ nó ngồi ở Nga Sơn, giả bộ cầm ống lắng úp lên ngực bệnh nhân nghe tim mạch, nhưng thực ra là để bắt tin tức của gián điệp ngoài Phát Diệm gọi vào!

        Chứng cớ là, máy bay Pháp có lần thả xuống sau vườn nhà thằng Vỹ một quả bom câm; mở quả bom ra trong đó có cả một túi thuốc độc và một cái bị rất chi là to, toàn truyền đơn với truyền đơn!…

        Bà con nông dân đă không nói th́ thôi, chứ đă nói ra rồi th́ cái ǵ cũng đúng cả. Đúng thôi chưa đủ, c̣n là Chân lư nữa. Ông Trời nghe, dẫu có lắc đầu cho rằng sai, nhưng ông Đội gật đầu bảo rằng đúng th́ cuối cùng… bà con nông dân, Quân Chủ lực của Cách mạng vẫn đúng!

Khi ngón tay trỏ của vợ C̣ Toe dí lên trán thầy làm thầy mất cân bằng loạng choạng suưt ngă ngửa, thầy vẫn ngơ ngẩn về chuyện cái lưỡi cưa nằm trong bụng thằng bé. Thầy từ tốn xin phép Đội được hỏi bà Toe xem cái lưỡi cưa ấy là lưỡi cưa ǵ? Bà Toe ngớ ra, quay đầu nh́n lên mấy ông bà Đội cầu cứu. Để gỡ bí nguồn cơn rắc rối, y tá Toành đang ngồi ở hàng đầu đám Quân Chủ lực vụt đứng dậy la lên:

        “Cái nưỡi cưa của Pháp dùng để cưa cổ mấy ống thuốc tiêm ấy, chứ c̣n nưỡi cưa lào lữa! Nại c̣n khéo giả vờ giả vịt!

        Nưỡi cưa ống tiêm thủy tinh, ló dài bằng hai đốt ngón tay, mỏng như cái ná núa… Vỹ! Mày c̣n chối lữa không?”

        Đám đông nông dân bần cố bỗng nhiên ồn ào.

        À ra vậy. Cái lưỡi cưa đựng trong hộp thuốc của Pháp, có lần thầy nhờ Toành cưa giùm một ống Quinoforme. Chẳng biết cưa thế quái nào mà ống tiêm th́ vỡ, mảnh vụn rớt ra bàn, rơi cả xuống nền nhà. Tay chân anh ta lúc nào cũng… hậu đậu!

        “Vỹ! Mày đă nhét cái nưỡi cưa đó vào bụng thằng bé, mày có chịu nhận tội không?”

        “Dạ có”. Thầy ngẩng đầu lên nh́n mấy ông bà Đội. Những khuôn mặt bẩm sinh đă có cái vẻ chai lỳ tự nhiên vốn chỉ để cho thần thánh xui, ma quỷ khiến. Hơn cả thiên tai địch họa, họ đă làm cho long trời và lở đất. Khổng Tử, Lăo Tử… Tử ǵ đi nữa, có sống lại, trước mắt họ rồi cũng phải cúi đầu chắp tay lại: “Vâng, tôi ngu…”

        Quay sang nh́n Toành, chẳng hiểu sao thầy không căm ghét mà chỉ thấy thương hại. Quả thật bọn đế quốc đă ban phát cho Mai Duy Vỹ cả một kho tri thức, c̣n lũ phong kiến th́ sao không san sẻ bớt cho Toành lấy một ống ḅ, một bốc… dăm hạt rơi văi gọi là những thứ đó.

        Quả là bất công, phi lư! Cần phải đạp đổ, phá sạch tan tành. “Du passé faisons table rase… Bien! Très bien”. Đúng! Rất đúng!

        Toành hoàn toàn chẳng có lỗi ǵ khi sinh ḷng ganh ghét với ḿnh, c̣n ḿnh th́ đúng là có tội!

        Đă sinh ra bất công rồi th́ phải san bằng, cào lấp, tiêu diệt bất công cho đến khi nào trên đời này chẳng c̣n bất công nữa. Cách mạng là vậy. Lúc bấy giờ, chủ nghĩa Cộng sản thắng lợi trên toàn thế giới. Trái đất là một vườn hoa thắm. Người lớn, trẻ con nhảy múa, vui chơi ca hát. Trong trường học, các thầy cô giáo chắc phải vất vả lắm mới giải thích cho học tṛ hiểu được hai chữ “bất công!”

        Cái Tâm của thầy con ạ, không hiểu sao, bao lâu rồi cũng ngập tràn niềm vui sướng hân hoan đó.

        Ánh mắt thầy dừng lại trên khuôn mặt của Toành (anh em có người đùa cho là giống mặt ngựa). Anh ta ngoảnh đi. Tự nhiên thầy buột miệng nói:

        “Dạ kính thưa Đội và bà con nông dân. Con đúng là người đă bỏ cái lưỡi cưa của ông Toành vào bụng cháu bé. Chưa đủ, con c̣n nhét thêm vào đó cả cái kéo, cái xê ranh tiêm thuốc nữa! Ha ha!”

        Rồi thầy lắc đầu cười sặc sụa. Cười y hệt như lúc ở nhà vui với bạn bè, đùa nghịch với các con vậy. Thầy không c̣n nghe ǵ tiếng la hét, tiếng hô “đả đảo” đang ầm ào cả biển sóng bên lỗ tai ù đặc. Sau hai lần đấu, tiếng ầm ào cũng đă quen tai, nghe chẳng to hơn tiếng vo ve của con ong ruồi kia từ đâu bụi cây sau khán đài đấu trường, thấy động bay vào tới đây, đang lượn quanh đầu thầy… Cặp cánh, râu, càng nó đang gại gại sống mũi, vo vo bên tai ḿnh: “Vỹ ơi! Làm sao thế? Có lẽ nào?” Thầy muốn trả lời nó: “Ong ơi! Giống loài cần mẫn, hữu ích, đáng yêu quư như em mà rồi con người vẫn có lúc ch́ chiết miệt thị: nuôi ong tay áo! Thế giới này đầy bất công phi lư! Lời nói của con người nhiều khi thật ngu xuẩn và ác độc!”

        Thầy dừng lại, kinh hoàng chợt nghĩ: Ta đă hoá điên rồi sao?

        Ngơ ngác nh́n quanh, đầu gục xuống, không khóc mà sao nước mắt cứ trào ra…

 

 

CHƯƠNG 37

TRUNG THU TRĂNG SÁNG…

CHUYỆN CHỒNG KỂ SAY SƯA,

VỢ NGHE ĐẰM THẮM

 

        Trở về với câu chuyện đêm Trung thu năm 1950…

        Sau khi mổ ruột thừa cho thằng bé xong, thầy trở về nhà vào lúc 10 giờ đêm.

        Tội nghiệp mẹ con! Bị chồng đánh đă không để bụng giận chồng lại c̣n như biết lỗi nữa! Vịm cháo gà mẹ nấu ủ trong chăn đợi thầy về vẫn c̣n đủ hơi nóng. Ăn xong thầy tỉnh cả người.

        Vợ chồng lại làm lành, thương yêu nhau. Mẹ sụt sịt khóc, hứa sẽ không bao giờ hỗn hào nông nổi như thế nữa.

        Chiếc giường gỗ của thầy kê đặt trong buồng riêng, hai cửa sổ hai phía thông thoáng, từ đầu đêm tới bất chợt lúc nào trong tháng cũng thấy bóng trăng tṛn hay trăng khuyết.

        “Lệ Uyên đă ngủ rồi, mẹ nói, lúc ḿnh về nó không biết”. Mẹ nằm xuống bên cạnh thầy. Cái tiếng “ḿnh” ai vừa nói đó làm ḷng thầy dịu lại, mềm đi…

        Thầy kể cho mẹ con nghe về Bác Hồ

        Bác Hồ hiện đang sống trên chiến khu Việt Bắc. Bác không có gia đ́nh, không có vợ, chẳng có con… Một đời Bác hy sinh cho dân tộc, đồng bào… Hai mươi lăm triệu dân ḿnh, hai mươi lăm triệu đứa con cháu yêu của Bác. Bác là vị cha chung của tất cả chúng ta.

        Mẹ bảo, Bác Hồ mắt sáng như sao, người Bác đẹp thế, ai cũng thương yêu kính trọng, Bác muốn lấy cô nào mà chẳng được? Sao Bác không lấy một bà, để bà ấy nâng khăn sửa túi, lại c̣n pḥng khi đau ốm, tuổi già đến, trái gió trở trời?…

        Thầy nói, Bác c̣n th́ giờ nào nữa, ngày đêm cùng mấy ông Trung ương, lănh đạo toàn quân, toàn dân đánh giặc cứu nước, lo cho đồng bào ai cũng được ăn no, ai cũng được học hành… Bác mà cũng như chúng ta, ngày đêm vợ kè kè bên, con cái vướng víu… th́ cái trí làm sao cho tĩnh, cái tâm bằng cách nào yên; c̣n hơi sức nào nữa mà lo cho dân từ bát cơm đến cái kim, sợi chỉ…

        Mẹ hỏi, thế c̣n mấy ông trên Trung ương th́ sao? Có ông nào cũng không vợ không con như Bác?

        Thầy bảo, mấy ông ấy đều có gia đ́nh riêng, vợ con tử tế cả. Chỉ có riêng ḿnh Bác thôi là phải hy sinh trọn một đời cho dân cho nước vậy. Nghe mấy ông trên Tỉnh kể, có 8 đồng chí suốt ngày đêm ở bên Bác chăm lo bảo vệ Bác; 8 người ấy có tên riêng do Bác đặt cho là: Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi.

        Mẹ cười, ồ vui nhỉ. Thích thật, mấy ông đó được sống bên Bác suốt đời. C̣n ḿnh th́ chỉ mơ được gặp Bác thôi, nhưng biết đến bao giờ?

        Thầy bảo, khi nào kháng chiến thành công, thế nào Bác cũng về lại Hà Nội, có khi về cả Thanh Hoá, Nga Sơn nữa. Theo lời mấy ông trên Tỉnh kể, th́ cuối năm 1946 - đầu 47 Bác Hồ có về Thanh Hoá. Tại Rừng Thông, Bác nói chuyện động viên hậu phương Thanh Hoá hăy giốc hết sức người sức của cho tiền tuyến. Bác c̣n tranh thủ ghé qua Phát Diệm gặp Giám mục Lê Hữu Từ cùng các cha cố, khuyên bảo họ hăy củng cố và phát triển mối t́nh đoàn kết lương - giáo, cùng toàn quân toàn dân góp sức đánh đuổi giặc Pháp xâm lược…

        Trên đời này có lẽ chẳng có ai được như Bác cả, người mà ở đâu, lúc nào cũng được dân quư, dân thương… Thầy say sưa nói đất nước ḿnh từ xưa tới nay chẳng có ai sánh được với Bác Hồ. Bà Trưng, Bà Triệu, ông Trần Hưng Đạo, ông Lê Lợi, ông Nguyễn Trăi, ông Quang Trung… ông nào cũng thua kém Bác. C̣n trên thế giới th́ sao? Kể ra th́ có những người c̣n vĩ đại hơn Bác. Chẳng hạn, ông Mác, ông Ăngghen, ông Lênin, ông Xít-ta-lin…

        Mẹ hỏi, có phải mấy ông Tây râu xồm, thầy nó dán ảnh lên tường không?

        Thầy bật cười, ừ mấy ông đó. C̣n Bác Mao nữa. Bác Mao người Trung Quốc, trông c̣n trẻ và khoẻ. Bác Mao không có râu. Trên mép dưới cằm đều nhẵn nhụi. Ḿnh nh́n thấy ảnh Bác Mao rồi chứ? Bác Mao có khi… e c̣n vĩ đại hơn Bác Hồ. Cũng phải thôi, Trung Quốc những 600 triệu người, ḿnh chỉ có 25 triệu, mới bằng một tỉnh của họ… Bác Mao vĩ đại hơn Bác Hồ. Đúng thế. Nhưng cái tấm gương cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, yêu nước thương dân, yêu quí trẻ con… th́ chẳng có ông nào bằng Bác Hồ của ta cả!

        Mẹ hỏi, thế c̣n Đức Chúa, Ông Phật?

        Thầy cười, Chúa Phật là mấy Ông Duy Tâm, dân chúng người ta mê tín th́ họ cúng vái vậy thôi, chứ làm sao sánh được với Bác Hồ!

        Ngoài trời, lúc bấy giờ trăng sáng lắm. Gối đầu lên tay thầy, mẹ giơ tay chỉ ông trăng ngoài cửa sổ, vằng vặc giữa trời cao. Ánh trăng trong và mát tắm gội đất trời, không chỉ làm cho cây cỏ hoa lá ngoài vườn mà cả ḷng người cũng sạch thơm tươi thắm. Gió ŕ rào từ ngoài biển xa, qua đồng cói vào tới đây d́u nâng, mơn vuốt, làn điệu côn trùng năn nỉ, tỉ tê… như muốn nhắn nhủ cho con người hiểu rằng ai được sinh ra ở cơi đời này, xứ sở đất nước này là có hồng phúc, là gặp vận may không chỉ riêng cho bản thân mà cho cả gia tộc… tới muôn đời sau!

        Hồng Phúc, Vận May như ánh trăng kia lai láng đời đời vô tận!

        Thầy rưng rưng nh́n trăng nói: “Ḿnh xem, Bác Hồ như vầng trăng kia, rọi sáng khắp muôn nhà…”

        Rồi nhắc nhủ mẹ phải cố gắng, cố gắng nhiều hơn nữa, đừng có kêu ca phàn nàn. Sự hy sinh, chịu đựng của gia đ́nh ta so với đồng bào, đồng chí cả nước chỉ là hạt cát, hạt mẵn… chẳng là cái nghĩa lư ǵ hết!

Thầy lại kể sang chuyện gia đ́nh Bác Hồ.

        Đâu phải chỉ ḿnh Bác, hai người anh và chị của Bác đều không lập gia đ́nh. Ông Cả Khiêm không lấy vợ, bà Thanh không lấy chồng. Cả hai đều hiến dâng đời ḿnh cho công cuộc đánh đuổi giặc Pháp xâm lược, giành lại độc lập tự do cho đất nước.

        Ở thời buổi ấy, ngay đến cả những ông Vua ngồi trên ngai vàng như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân rồi cũng phải cảm nhận được nỗi đau mất nước, thấy thân phận ḿnh cũng chỉ là người dân nô lệ. Cả ba vua đều nổi dậy chống Pháp, rồi bị đày đi biệt xứ, chung thân tại mấy ḥn đảo bên Châu Phi xa lắc…. Số phận mấy ông quan có ḷng yêu nước thương dân cũng thê thảm bi đát.

        Ông thân sinh của đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta là một biểu tượng xót thương đáng ghi nhớ. Đậu Thủ khoa chữ Hán, được bổ làm quan Tri phủ một tỉnh ở Miền Trung… Ông luôn luôn dằn vặt, đau ḷng trước cảnh dân lành bị đói khổ, chà đạp dưới ách nô lệ áp bức của thực dân Pháp và Nam triều.

        Một lần, bất tuân lệnh của thượng cấp, không thể đang tâm đưa lính đi đàn áp cuộc nổi dậy chống thuế của nông dân địa phương, bố của Trần Phú, vị quan nhà Nguyễn dào dạt ḷng nhân đạo và khí tiết… đă lặng lẽ tḥng dây treo cổ tự vẫn ngay tại phủ đường nơi ông đang làm việc!

        Mối thương đau, nỗi hờn căm này sẽ không bao giờ nguôi ngoai trong ḷng người con của ông là Trần Phú!

        C̣n trường hợp Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh ra Bác Hồ cũng vậy… Ông quan Tri huyện ở một tỉnh miền Trung này cũng đau ḷng nhức óc v́ thảm cảnh của đồng bào xẩy ra thường ngày, đến nỗi ngày ăn không ngon, đêm ngủ chẳng yên! Đă nhiều lần cụ chứng kiến những trận mưa roi bọn lính c̣ cẩm Pháp trút lên thân ḿnh đám phu đường, các tù nhân chính trị ở nhà đày…

        Và có lần tận mắt thấy viên quan lại Nam Triều lè nhè say trong khi ngồi trên ghế ở Huyện đường, đă cầm cây gậy lim to tướng quật nện xuống giữa đầu người nông dân vô tội, khiến cho gáo anh này vỡ toác, máu óc vữa ra lênh láng, gục ngă xuống nền nhà, chết ngay tại chỗ…

        Cụ Phó bảng tưởng đâu ḿnh cũng ngất xỉu chết theo! Vài ngày sau, cụ viết đơn gửi lên Chính quyền Pháp và Nam triều xin cáo quan, từ chức!

        Kinh tởm chế độ thực dân thuộc địa, chán ngấy bước đường làm quan, Cụ Phó bảng Sắc vào thẳng trong Nam Bộ lặng lẽ sống đời của một lương dân, làm thuốc Nam chữa bệnh cứu người!

        Cả gia đ́nh Bác để phúc, dành đức cho dân tộc ḿnh!

        Mẹ mới chen ngang vào hỏi thầy, rứa th́ Phó bảng là cái chi? Thầy phải dừng lại cắt nghĩa dài ḍng cho mẹ hiểu. Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, các ngôi thứ trong khoa bảng được sắp xếp từ thấp lên cao theo ba kỳ thi: Hương, Hội, Đ́nh.

        Kỳ thi Hương, Triều đ́nh chọn một số thí sinh đậu thấp gọi là Tú tài, số cao hơn gọi là Cử nhân. Tú tài không được làm quan, chỉ được phép dạy học và làm thơ như ông Tú Xương chẳng hạn. Cử nhân th́ được làm quan, thường nhậm chức tri huyện… Đỗ đầu khoa thi Hương này, đè sấp đè ngửa tất cả các ông Cử nhân được gọi là Thủ khoa, hay c̣n gọi là Giải nguyên. Ông thân sinh ra Trần Phú là người chiếm ngôi thứ này.

        Thời xưa đậu Thủ khoa-Giải nguyên danh tiếng đă lẫy lừng. Như cụ Phan Bội Châu chẳng hạn, năm Canh Tư 1900, chiếm gọn cái Thủ khoa xong là cụ đi thẳng sang Nhật, chẳng cần ngoái đầu lại… Cụ Phan thi là để lấy tiếng, đâu có cần miếng. Tiếng nghĩa là uy tín đối với giới sĩ phu, tầng lớp trí thức, ḷng ngưỡng mộ kính yêu của dân chúng, đồng bào; để khi cần đề ra đường lối, chủ trương kêu gọi toàn thể quốc dân tham gia phong trào cách mạng, th́ lời nói việc làm của Cụ dù là ở đâu, lúc nào cũng sẽ được đa số người dân Việt đồng t́nh ủng hộ, tham gia ngay!

        C̣n miếng, có nghĩa là thi đậu để ra làm quan th́… xin lỗi… Cụ ỉa vào! Thầy văng tục làm mẹ ph́ cười. Là tri huyện, tri phủ, tổng đốc, thượng thư ư? Ngay từ lúc cất tiếng khóc chào đời, Cụ Phan đă khóc cho cái thân phận ḿnh là làm người dân nô lệ rồi! Khác với các sĩ phu yêu nước cùng thời, một số vị do hoàn cảnh ép buộc, cũng phải dính tới cái miếng, nghĩa là có ra làm quan cho Nam triều một thời gian, trước khi cởi bỏ mũ áo quan trường, tham gia các trào lưu cách mạng… Cụ Phan căm ghét Pháp từ lúc mở mắt chào đời, muốn đánh đuổi thực dân ra khỏi nước, xoá bỏ chế độ phong kiến nô lệ; từ thuở c̣n là nhi đồng đă bày tṛ chơi diệt Pháp-Lan-Tây cho các bạn nhỏ trong làng… C̣n nói ǵ tới cái miếng nhơ nhớp, xa lạ, khốn khổ ấy! Không có ai sáng giá, hùng vĩ như Phan Bội Châu lúc bấy giờ. Và Phan Chu Trinh… Một con người kỳ diệu. Cụ sinh trước và mất trước Găng-đi… Vậy mà… nguồn sáng tư tưởng Cụ không chỉ tương đồng mà lại c̣n vượt trội trước Găng-đi! Một nhân vật lịch sử mà dân tộc Việt Nam, loài người chúng ta rồi sẽ gặp lại và c̣n suy nghĩ…

        Thầy lại nói thêm về cái miếng cho mẹ hiểu đầy đủ hơn.

        Lúc Pháp mới sang, cái miếng lại càng cuốn hút người ta bởi nhiều mùi vị khác lạ tân kỳ. Ngày xưa, nói của đáng tội, các cụ ta làm quan cũng nghèo. Bây giờ làm quan có nghĩa là tiền của, giàu sang. Chẳng thế mà Pháp mới sang buổi sáng, buổi chiều đă có anh cắp ô đi làm cho Pháp ngay. Tiêu biểu nhất cho bọn người này là Tôn Thọ Tường. Cũng phải kể thêm hai anh em họ Dương: Dương Khuê, Dương Lâm - hai con chó săn của Tây, hai thằng Việt gian. Có ai đời ông bạn thâm giao Nguyễn Khuyến khuyên “biết thôi thôi thế th́ thôi mới là”, họ Dương vẫn không chịu nhả ra, vẫn đớp lấy, ngoạm chặt cái miếng “đẩu thăng”… Rượu sâm banh, sữa ḅ, chơi đĩ, hát ả đào… là những cái khoái “ngây ngây dại dại” của hai tên quan ô nhục này!

        Thầy say sưa dẫn giảng cho mẹ nghe những chuyện trong đời sống lịch sử của dân tộc Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ qua, mà không hiểu sao đêm nay, thầy thấy gần gũi mật thiết với ḿnh đến thế! Khác nào một con chiên mới theo Đạo, muốn giải bày cho bạn t́nh nghe về những “mặc khải” (revelation) trong người ḿnh, Đạo Mác Lênin cũng đang phơi phới dâng trào làm ngập cả cơi ḷng thầy.

        Im lặng một hồi lâu. Tưởng mẹ đă buồn ngủ, nhưng không, mắt mẹ mở to, vẫn muốn nghe thầy kể chuyện.

        Mẹ nhắc lại là, thầy vẫn chưa nói rơ Phó bảng là cái chi, c̣n Thám hoa nữa… là ǵ? Làm sao Cụ Tổ họ Mai nhà ta lại gọi là Cụ Thám?

        Thầy mỉm cười, gắng dẫn giải sơ lược nhưng rơ ràng hơn cho mẹ hiểu. À, thế này chứ… Thi Hương xong người ta lại thi Hội. Trừ cụ Phan Bội Châu ra, ai người ta cũng vác lều chơng tiếp tục kỳ thi Hội. Thi Hội là để chọn Tiến sĩ, c̣n gọi là ông Nghè. Ông Cử đă được phép làm quan nhưng là quan nhỏ; c̣n ông Nghè th́ được làm quan lớn hơn; chẳng hạn, án sát, tuần vũ, tổng đốc…

        Kỳ thi Hội này, có những người tuy không đậu được Tiến sĩ nhưng cũng đậu được… cái thấp hơn, gọi là Phó bảng. Cũng có thể gọi là Á Tiến sĩ. Dẫu chưa được gọi là Nghè, nhưng vẫn được ra làm quan, dĩ nhiên… Cử nhân c̣n được làm quan kia mà! Có điều, cũng là chuyện tất yếu thường t́nh, nhiều ông Phó bảng thường mang cái cục u uất, bất măn trong người như khối u vậy. Học tài thi phận, chỉ cần gắng thêm một tí, may mắn hơn một chút, là cái ông Nghè đă… nằm trong tầm tay với rồi!

        Tuy nhiên, lại cũng tuỳ thời, tuỳ người… Chẳng hạn, ông Nghè Trần Quư Cáp vào làm quan ở Khánh Hoà lại gặp tay Tú tài Phạm Ngọc Quát từ trong Nam ra. Phạm Ngọc Quát nghe đâu là ông nội hay bố đẻ ra Phạm Ngọc Thạch, Bộ trưởng Bộ Y tế của ta thời bây giờ? Tiến sĩ họ Trần dẫu học rộng tài cao cũng vẫn ngồi hàng quan chức thấp hơn Tú tài họ Phạm, là tay chân của Pháp. Vụ án tày trời do Phạm gây ra cho Trần về mấy tội: đọc sách cấm Tân thư, hoan hỉ đồng t́nh với bà con nông dân nổi loạn chống thuế ngoài Quảng Nam, treo một tấm bản đồ thế giới ở đầu giường, trong pḥng ngủ… đă khiến ông Nghè Trần Quư Cáp phải chịu xử tử h́nh thương tâm, rùng rợn, đau đớn bên cầu Sông Cạn ở thành Diên Khánh: chém ngang lưng!

        Mẹ ôm gh́ lấy thầy, xuưt xoa: Trời ơi! Thương quá! Tội quá! Các cụ ḿnh thời xưa sao lắm người khổ sở đau đớn thế!

        Thầy dẫn giải tiếp:

        Sau kỳ thi Hội, mấy ông Tiến sĩ lại tiếp tục thi Đ́nh. Người đậu đầu kỳ thi Đ́nh, gọi là Trạng nguyên. Trạng nguyên là ngôi cao nhất, người đứng đầu khoa bảng thời xưa. Dưới Trạng nguyên, thấp hơn một chút, Triều đ́nh chọn thêm một người nữa là Bảng nhăn, c̣n gọi là Á Trạng…

        Từ thời Lê trở về trước, các khoa thi Đ́nh, đều có tuyển chọn. Từ thời Nguyễn trở đi, không rơ v́ sao Triều đ́nh không tuyển chọn Trạng nguyên nữa; chỉ c̣n có Bảng nhăn, thậm chí cho đến thời Tự Đức chỉ c̣n lại Thám hoa, sang thời Thành Thái chỉ c̣n có Hoàng giáp…

        Ông Cụ tổ họ Mai nhà ta đậu Thám hoa thời Tự Đức. Cũng coi như là Trạng nguyên… làm quan một dạo rồi xin về quê mai danh ẩn tích.

 

        Càng về khuya, trăng càng sáng. Trời trong vắt, không một gợn mây. Qua cửa sổ, thời gian và không gian như lắng lại cùng hoà làm một. Thầy thấy ḿnh ngây thơ nhỏ bé trước Nhân dân và Tổ quốc, rưng rưng cảm nhận ra sự lớn lao của hạnh phúc được làm một người dân Việt… Liên Xô, Trung Quốc và các nước Xă hội Chủ nghĩa dĩ nhiên là họ sung sướng hơn ḿnh rồi; nhưng c̣n các nước tư bản và những nước ở quanh ta như Ấn Độ, Nam Dương, Thái Lan, Mă Lai… th́ sao? Chắc chắn là lạc hậu tăm tối hơn ta nhiều v́ họ không có đảng Cộng sản dẫn lối đưa đường, lại càng không thể có một lănh tụ kiệt xuất anh minh như Bác Hồ!

        Nghĩ vậy, mà nước mắt cứ rưng rưng và trong tim ḿnh như cũng ứa lệ. Cảm ơn Đảng, cảm ơn Cách mạng đă sinh con ra đúng th́ đúng lúc… Chẳng phải như ai cùng lứa tuổi, thế hệ với con mà rên rỉ kêu than là “đầu thai lầm thế kỷ, lạc loài dăm bảy đứa” đến nỗi “quê hương ruồng bỏ, giống ṇi khinh”…

        Mẹ con lại hỏi, vậy th́ ai mới được gọi là nhà cách mạng?

        Trước hết, người đầu tiên phải nhắc tới là Bác Hồ Chí Minh, Cha già dân tộc…

        Thầy vừa nói đă nghẹn lời v́ xúc động. Rồi lần lượt kể tên: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ, Ngô Gia Tự…

        Thầy dừng lại như đứng trước biển, đang ngợp đi v́ những đầu sóng dạt xô vào bờ.

        Khách quan mà kể th́ ba ông vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân cũng là ba nhà cách mạng - những nhà cách mạng lớn! Chấp nhận tù đày, đặt Tổ Quốc lên trên hết, không chịu làm nô lệ, coi ngai vàng nhẹ như chiếc lông hồng… hy sinh tất cả để dành lại độc lập, tự do cho Đất nước… Như vậy, nếu không là Cách mạng th́ là ǵ?

        Cũng phải kể tên những người kế tiếp sau đó: Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Phan Đ́nh Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật, Lương Ngọc Quyến…

        Mẹ đưa ra một nhận xét: Trong danh sách những nhà cách mạng Việt Nam th́ đa số là đàn ông nam giới, đàn bà nữ giới không nhiều.

        Mẹ hỏi, chị Nguyễn Thị Minh Khai là ai, nghe nói cùng quê Nghệ An với Bác Hồ, có bà con ǵ với Bác không?

        Thầy giảng giải cho mẹ hiểu: chị Minh Khai là vợ của đồng chí Lê Hồng Phong. Cả hai vợ chồng chị cùng với Trần Phú, Hà Huy Tập… đều là học tṛ của Bác. Thầy và tṛ đây có nghĩa ở trường đời, trường Cách mạng… chứ không phải trường học đơn thuần dạy a b c dành cho trẻ con đâu! Thầy tức là người đi trước, người đào tạo, rèn luyện… truyền lại những kinh nghiệm đấu tranh, dắt dẫn đường lối chủ nghĩa Mác Lênin…

        Chị Minh Khai là người đàn bà Việt Nam đầu tiên sang Liên Xô, đất nước của Lênin. Lê Hồng Phong bị Pháp bắt, đày ra Côn Đảo và chết ở ngoài đó. C̣n chị Minh Khai th́ chết trong khởi nghĩa Nam Kỳ. Bọn Pháp đưa chị lên máy chém.

        Nghe thầy kể cái lưỡi máy chém nặng cả bảy tám chục cân từ trên cao phập xuống, chặt đứt cổ ĺa đầu các chiến sĩ cách mạng! Những năm trước đó là Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái và bây giờ, năm 1942, là Nguyễn Thị Minh Khai… Mẹ con sợ quá, rúc đầu vào ngực chồng rùng ḿnh: “Trời ơi, bọn Pháp chúng nó ác quá, dă man quá, chặt đầu cả một người đàn bà!”

        Vợ chồng Lê Hồng Phong - Nguyễn Thị Minh Khai sinh được một bé gái, đặt tên là Hồng Minh… thầy kể thêm. Nghe nói một thời gian dài họ phải gửi Hồng Minh cho các đồng chí cưu mang, nuôi giùm để đi hoạt động cách mạng. Có đâu được như bé Lệ Uyên nhà ḿnh, ngày đêm bố mẹ nuôi dưỡng, ông bà chăm sóc…

        Trước khi chết, chắc chị Minh Khai nhớ thương con lắm. Mẹ thở dài. Thế bây giờ cháu bé nó ở đâu? Ở bên Trung Quốc à? Giá như cháu ở gần đây, ngay tỉnh Thanh, nhà ḿnh đem về nuôi th́ hay biết mấy. Thương quá!

        Thầy gật đầu đồng t́nh. Nhà ta những năm 40 cũng đă từng nuôi giấu các chiến sĩ Cộng sản trong nhà. Cái giường gỗ em và bé Uyên nằm bây giờ, mấy ông Cộng sản vượt ngục ra… đă từng yên giấc.

        Vừa lúc đó, bé Uyên u ơ khóc trong nhà đ̣i mẹ. Thầy bảo mẹ vào với con.

        Thầy vừa chợp mắt một lúc th́ mẹ lại quay trở ra. Nghe thầy ú ớ hỏi, mẹ xuỵt bảo im… Thầy hiểu ư. Lúc ấy vào khoảng hơn một giờ khuya. Mảnh trăng đă đi khuất sang bên kia mái nhà.

        Đêm ấy, mẹ có thai. Bé Thụ, em trai của con mới thật là cậu út của cả nhà.

        Em con chết khi vừa đầy năm. Dạo ấy thầy phải đi họp, học tập chỉnh huấn chính trị trong Nghệ An. Ở nhà chẳng có ai biết cứu chữa, cũng không t́m đâu ra thuốc uống để cầm dứt chứng ỉa chảy, dịch tả…

Về tới nhà thầy mới biết tin. Em bé đă chôn cất được hai ngày rồi. Ôi...!

 

 

CHƯƠNG 38

NGƯỜI VÔ H̀NH

 

        Thầy lại nằm yên, trông đợi trời sáng.

        Trời sáng, một ngày tới, con người quanh ta họ lại thức dậy và làm những việc thường ngày. Trong đó có cái việc quan trọng nhất mà họ phải hoàn thành và hoàn thành vượt mức, ấy là đánh đổ giai cấp địa chủ, tiêu diệt bọn Việt gian phản động bằng tất cả ngón đ̣n hóc hiểm, tṛ chơi man rợ nhất mà họ moi t́m, nhào nặn ra từ trong đầu óc. Phải giết người làm sao đây để cho thoả cái khoái cảm của ḷng hận thù, ganh ghét giai cấp mà Trời đă ra lệnh, Đội đă phóng tay, ban cho họ cái quyền tự do vô hạn độ!

        Nghĩ tới chuyện vợ chú Lê Trạch Đông tố bà nội con, mà cũng là mẹ của thím ấy chứ c̣n ǵ, đang đêm một ḿnh ṃ ra giếng làng, cởi quần, chổng mông đít, ngồi xổm, ỉa phẹt xuống giếng mấy băi liền để cho cả làng phải uống nước cứt. Rồi nghĩ sang chuyện vợ chồng C̣ Toe được y tá Toành mớm cho, tố thầy đă nhét cái lưỡi cưa vào ruột thằng cu con… để đến nỗi thằng bé lăn đùng ra chết ngay… Thầy phải lắc đầu bái phục chịu thua cái trí tưởng tượng phong phú cực kỳ của các ông bà nông dân ta!

        Các chuyện cổ tích hoang đường, tiếu lâm nực cười xưa nếu đem so sánh với những chuyện đấu tố thời bây giờ, nói như chàng Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng là “chẳng nước mẹ ǵ”.

        Không nhịn được, tự nhiên thầy phá lên cười.

        Tiếng cười vang lên trong pḥng giam giữa đêm khuya làm chính thầy cũng giật ḿnh.

        Vỹ ơi! Anh hoá điên rồi sao? Ừ, tôi đang điên đây. Là con người đôi lúc cũng dễ hoá điên lắm, nhất là sinh ra ở cái đời này!

        Thầy dỏng tai, rán sức nghe. Không ai hay biết ǵ cả. Chỉ có tiếng mọt nghiến từ tấm ván cửa đàng sau buồng giam. Giữa đêm khuya nghe rơ mồn một, lại có vần có điệu như tiếng nhai rồn rột, trèo trẹo, vỡ vụn một khúc xương từ hàm răng của con chó, con gấu… Hay chính con người chúng ta?

        Ngày mai đây, 27 tháng Chạp năm Ất Mùi 1955… thầy linh cảm rằng Mai Duy Vỹ sẽ không c̣n nữa, hay nói cho thật đúng và chính xác hơn, Mai Duy Vỹ sẽ chết. Người ta sẽ giết hắn để cho tất cả mọi người ở quanh đây, khắp cả Nga Sơn Thanh Hoá được sống. Riêng những người như các ông Đông, Toành, Xoa, Toe… và mấy ông bà Đội, đặc biệt ông Đội trưởng, người Nam Đàn, nói tiếng Nghệ th́ không chỉ được sống thôi mà c̣n được giết. Giết! Giết!

        Ngày mai đây, tiếng con mọt nhai nghiến kia lại vẫn rồn rột, trèo trẹo vang lên trong đêm khuya. Không chỉ thế thôi đâu, c̣n nhiều con khác nữa, chuột, mối, bọ sẽ gậm nhấm khoét đục Mai Duy Vỹ này, đùn đất lên, khỏa vùi nỗi đau một thời của ḍng họ Mai cùng năm tháng.

        Thầy muốn sống, các con ơi, thầy muốn sống! Ai lại đi bắt một con người vô tội phải chết ở tuổi 36! Trời Đất ơi! Hăy cho tôi sống để tôi nuôi các con nhỏ, báo hiếu đền ơn cha mẹ! Bà con ơi! Các đồng chí ơi! Tôi vô tội! Hăy để cho Mai Duy Vỹ được sống để Vỹ chữa bệnh cho dân nghèo, báo đền công ơn các đấng tiên liệt! Oan cho con lắm, Bác Hồ ơi! Oan cho tôi lắm, anh Trường Chinh ơi!

 

        “Vỹ!”

        Một tiếng thét đập vào tai, ngay trước mặt làm thầy giật ḿnh, sững người.

        “Sao đồng chí hèn nhát thế?”

        Thầy ngước nh́n phía trước. Căng mắt t́m xem trên nền tối của màn đêm có h́nh bóng ai hiện lên không? Lại cũng muốn ngoái sang bên, quay ngoặt lại đằng sau… nhưng cái cổ đă cứng ngắc như hoá đá.

“Đồng chí Vỹ! Thử nhớ lại xem nào…” - Tiếng nói bớt gay gắt, có phần ôn tồn. - “Thử nhớ lại xem… Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ, Lư Tự Trọng… đă nói những ǵ với kẻ thù của dân tộc, kẻ thù của giai cấp trước lúc ra đi. Ánh mắt của họ đă nh́n thẳng vào Cái Chết như thế nào? Mới đó thôi, chưa tới 15 năm… Vậy mà sao bây giờ đồng chí lại có thể đớn hèn, tham sống sợ chết thế nhỉ?”

        Thầy chới với trước một đợt sóng ngầm xô tới, ào lên, bật ngửa. Là một tay bơi vào loại khá thế mà ḿnh bỗng nhiên trở thành người không biết bơi, cứ thế ch́m xuống, ch́m xuống…

        “Không! Không mà!… Cho tôi nói” - Thầy ú ớ la lên - “Tôi đâu có đứng trước kẻ thù… Bà con nông dân, Đội Cải cách… các anh em, đồng chí… những người tôi xin được cúi đầu, tuân thủ, phục vụ. Chính họ coi tôi, Mai Duy Vỹ, là kẻ thù của dân tộc, kẻ thù của giai cấp đấy chứ! Giả dụ đế quốc Pháp có bắt được tôi, giam giữ tra tấn, đem tôi ra pháp trường xử bắn, như Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn thụ… tôi tin rằng ḿnh cũng có được sự dũng cảm, kiên cường… nếu không 10 phần, th́ ít ra cũng được ba bốn năm phần như các đồng chí ấy. Trước lúc ra đi, ḷng dẫu đau đớn thương vợ nhớ con, tôi vẫn có đủ sức mạnh b́nh tĩnh nh́n vào Cái Chết! Tôi không có kẻ thù! Tôi không phải là kẻ thù!

        Thầy uất nghẹn, muốn thét lên.

        Một vệt sáng đi ngang qua. Ḥn lửa đỏ nhấp nháy chập chờn. H́nh như Ai đó? Người-vô-h́nh nào đang lởn vởn mờ tỏ đằng trước mặt?

        “Vậy kẻ thù là ai?” Tiếng Người-vô-h́nh đay lại có phần gay gắt không khoan nhượng.

        “Tôi không phải là kẻ thù! Thế thôi!” - Thầy lắc đầu, dằn giọng.

        “Anh cho rằng ḿnh không phải là kẻ thù th́… chính anh đă là kẻ thù!”

        “Ủa? Sao vậy?”

        Người-vô-h́nh nói thủng thẳng từng tiếng nghe như đọc bài:

        “Lịch sử của loài người từ khi có giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp.

        Từ khi xă hội loài người phân chia ra giai cấp là từ đó sinh ra kẻ thù. Giai cấp bóc lột là kẻ thù của giai cấp bị bóc lột. Và ngược lại… Ai cũng trở thành kẻ thù của ai hết! Không ai là không có kẻ thù, và không ai không phải là kẻ thù. Và tôi đây này, tôi cũng là kẻ thù của chính tôi! Hiểu chưa?”

        “Vâng. Nhưng mà…”

        “Nhưng mà cái chi? Hử? Hạnh phúc là đấu tranh!”

        “Đồng ư. Có đấu tranh mới có hạnh phúc…”

        “Cho nên, đấu tranh ban ngày chưa đủ, phải đấu tranh cả ban đêm. Làm ngày chưa đủ, tranh thủ làm đêm. Lao động sản xuất, giết giặc…”

        “Đồng ư”.

        “Ngay cả ban đêm, nhắm mắt rồi trong giấc ngủ cũng phải… đấu tranh!”

        “Dạ. V́ sao thế ạ?”

        “Kẻ thù nó chui vào, ẩn khuất ngay trong giấc ngủ, không phải thế sao? Chẳng hạn, đồng chí mơ thấy ḿnh ăn no mặc ấm, vợ đẹp con khôn, không phải làm chi cả mà thóc lúa đầy bồ, chết đi rồi c̣n được lên Thiên Đàng, về Niết Bàn… Không phải là kẻ thù nó len vào, nó xui khiến bậy bạ hay sao? Kẻ thù nó xúi mày làm những điều ác hại như cưa tay, chặt chân, bỏ lưỡi cưa vào bụng, tiêm thuốc độc vào người các ông bà, anh chị nông dân… cho nên mày là kẻ thù đứt đuôi của giai cấp nông dân, anh em bần cố, Quân Chủ lực… rồi chứ c̣n ǵ! C̣n căi nữa không?”

        “Nhưng mà…”

        “Nhưng… nhưng cái con khỉ! Vẫn chưa thông hả?”

        “Nhưng… nói như vậy hoá ra trước khi xă hội loài người phân chia giai cấp th́ kẻ thù có rất ít hoặc gần như không có. C̣n từ khi phân chia giai cấp tới nay th́ nẩy sinh ra không biết bao nhiêu là kẻ thù! Con người đang từ chỗ vô tư, nhân hậu, bỗng nhiên trở nên xấu tính: ḍm ngó, xét nét, ganh ghét, cấu véo, đâm chọc, đánh lộn, bắn giết nhau… Có phải thế không ạ?”

        “Ừ… th́ nói nữa đi”.

        “Con người mang tính giai cấp rồi cũng ảnh hưởng tới loài vật… Chẳng hạn như con chó. Trước đây, con chó nào cũng là con chó. Nghĩa là, ở với con người th́ ban ngày sủa gâu gâu để cho chủ biết có người qua đường hoặc vào nhà, ban đêm ăng ẳng kêu to để chủ hay rằng trời vẫn c̣n tối và Ông Trăng đang c̣n mắc trên ngọn cây đang chờ Bà Trời lên gỡ thoát ra…

        Nghĩa là, cùng với con người, chó ta rất hồn nhiên, vô tư!

        Nhưng từ khi con người phân chia giai cấp rồi, bắt đầu cấu véo, uưnh lộn, bắn giết nhau th́ loài chó tự nhiên cũng thay đổi cách nh́n, lối sống đối với nhau. Con chó nhà này bắt đầu ganh ghét với con chó nhà bên kia. Tại sao ḿnh gầy g̣, xấu xí như ri mà hắn ta th́ béo tốt mượt mà như rứa? V́ cớ chi mà ḿnh th́ một miếng cơm văi, cơm rơi trông chờ mỏi cổ lắm khi cũng nỏ có, c̣n phải kiếm thêm băi phân, cục cứt; tranh nhau đớp cắn mổ rỉa cùng với con gà thằng mèo… C̣n hắn th́ sao, cơm thừa canh cặn chẳng thiếu, thỉnh thoảng c̣n được bồi dưỡng thêm cục xương heo, xương ḅ to tướng, gân thịt c̣n đeo bám tua tủa, ngoạm đưa vào xó ngồi gặm cả buổi cũng chưa hết…

        Bởi thế cho nên, đôi khi ta vẫn thường thấy ngoài ngơ, trên đường có những con chó đè nhau ra, cắn nhau chí tử. Một hai con cắn nhau đâu đă xong, tự nhiên nhiều con khác xuất hiện ở đâu trong các ngơ xóm, hóc hẻm… chạy ra, chúng cũng chia làm hai phe rơ rệt, nhập vào liên kết với hai con chó kia, nhảy chồm lên nhau, cắn xé nhau cho đến khi nào tơi tả da thịt, sứt mơm, long răng… rồi mỗi con chạy đi mỗi nơi, mà vẫn không sao hiểu được v́ đâu lại xẩy ra trận đại chiến, cuộc đấu tranh giai cấp khủng khiếp, quyết liệt như vậy?”

        Thầy dừng lại, giữ ư. Cứ tưởng u mặc (humour) một chút cho vui, có khi chạm nọc hắn lại nổi điên lên, nhưng không, Người-vô-h́nh lại c̣n pha tṛ góp vui thêm.

        “Thế c̣n trường hợp như ta vẫn thường gặp, hắn nói, một con chó và một con cầy, hai con chổng đít lại nhau, ngoắc ngoéo đuôi nhau, làm cái tṛ ǵ mà dù người ta có lấy đá ném vô đầu, dùng gậy nện vào sống lưng, hoặc cầm dao rựa chặt một phát xuống giữa… hai cái nớ, th́… hai đứa, à hai con, vẫn cứ đoàn kết, kiên quyết không chịu ly khai, buông rời nhau ra! Theo đồng chí, hiện tượng đó biểu hiện bản chất ǵ?”

        “Tôi chưa dám đánh giá và cũng không quen kết luận về cái gọi là bản chất, tuy nhiên về hiện tượng, theo tôi, ta có thể gọi đó là sự đồng cảm giai cấp, mối giao hoà giai cấp hoặc khối liên minh giai cấp…”

        “Chưa chắc! Hiện tượng và bản chất dù không thể lúc nào cũng đánh đồng lại làm một, tuy nhiên vẫn không thể tách rời hai cái đó ra… Hai cái con đó, chúng nó chắc ǵ đă mang bản chất giai cấp giống nhau, thành phần giai cấp giống nhau? Phải truy t́m cho ra thành phần giai cấp, lư lịch ba đời của chúng…”

        “Ba đời thôi ư? Theo tôi vẫn chưa đủ. Phải bốn năm đời trở lên ta mới tạm gọi là nắm được bản chất giai cấp của từng người: Lịch sử nhân loại, lịch sử đấu tranh giai cấp đă trải qua cả mấy ngàn triệu năm kia mà!”

        Thầy khẽ cười. Hắn im lặng. Có vẻ như đồng ư mà lại cảnh giác.

        “Đă nói đi nói lại rồi! Vấn đề quan trọng nhất vẫn là giai cấp và đấu tranh giai cấp.” Giọng hắn lại trở nên khô queo và lạnh lùng. “Không thể, dù là một phút, mà buông lơi quan điểm giai cấp, chao đảo đứng không vững trên lập trường giai cấp. Có đấu tranh giai cấp th́ xă hội mới phát triển được. Phải đẩy đấu tranh giai cấp lên tới đỉnh tột cùng! Và đây là trận cuối cùng…”

        Rồi Người-vô-h́nh nói như hát:

        Đây là trận cuối cùng sẽ thắng

        Đè bẹp quân thù đế quốc!

        Chúng ta không xa rời!

        Quyết không bao giờ xa rời!

        Đảng là đội ngũ của giai cấp tiên phong!

        …Đây Liềm Búa vung lên nhằm vào đánh cho quân thù nát tan.

        Chúng ta bao người quyết không xa rời

        Đảng Cộng sản mến yêu.

        Ai đi tiên phong giành cơm áo cho dân?

        Ai đứng lên lănh đạo được toàn dân đấu tranh

        Cung sang tang! Củng sản tàng…

        Cung sản tàng! Giai cấp tiền phong!

        Trong người tự nhiên thấy phấn khởi, lâng lâng… thầy cũng hai ba nào… vỗ tay lấy nhịp, đệm theo cho hắn hát… Hắn dừng lại đột ngột, ḍ xét.

        “Trận cuối cùng này. Hắn dằn giọng, nói to. Dù có phải hy sinh, đổ máu đến một phần ba nhân loại cũng phải quyết tâm chiến đấu và… hoàn thành!”

        “Đồng ư! Quyết tâm!” Thầy hùa theo một cách chân thành ngây thơ. “Xin được phép hỏi đồng chí… Sau trận cuối cùng sẽ thắng, và chắn chắn sẽ thắng cả trăm phần rồi, xă hội loài người sẽ tiến lên… tới đâu?”

“Cộng sản chủ nghĩa, chứ c̣n ǵ nữa!?” Hắn nói nghe như gắt.

        “Tiến lên Cộng sản chủ nghĩa rồi th́ khi ấy… xă hội loài người có c̣n giai cấp nữa không?”

        “Không! Xoá sạch hết giai cấp!...”

        “Thế c̣n đấu tranh giai cấp?”

        “Hết! Hết giai cấp đấu tranh! C̣n giai cấp nào nữa mà đấu với tranh!”

        Thầy cười. Hắn cũng cười.

        “À… mà vẫn c̣n đấu tranh chứ? Đấu tranh với ai, biết không? Đấu tranh với Thiên nhiên. Phải làm chủ Thiên nhiên. Bắt Thiên nhiên phải mưa nắng theo ư của con người chúng ta! Không được băo lụt, hạn hán, động đất, sóng thần lung tung…”

        “Phải trèo lên đầu, cỡi lên cổ Thiên nhiên… Nhong nhong ngựa ông… Nếu Thiên nhiên không chịu nghe lời làm theo th́ đè xuống, ngồi lên lưng, bóp dái… Cấm không được kêu. Hà hà. Nếu mày không chịu làm theo tao, th́ tạm thời tao cứ vắt đất ra nước thay trời làm mưa, nghiêng đồng đổ nước ra sông cái đă! Có phải thế không ạ? Thưa đồng chí…”

        Người-vô-h́nh chững lại. Hắn cảm thấy ta và hắn, hắn và ta h́nh như cả hai đều đă ít nhiều buông lơi quan điểm giai cấp, đi chệch ra hơi xa đấu tranh giai cấp, bèn quay trở về tư thế cũ, lên giọng huấn thị răn đe ngay:

        “Này, ta báo cho ngươi hay. Từ nay cho đến khi kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh cuối cùng, giai cấp vô sản thế giới, quần chúng công nông binh, nông dân Quân Chủ lực chúng ta… có rất nhiều kẻ thù và phải tiêu diệt cho kỳ hết những kẻ thù đó! Giết! Giết! Giết hết!”

        “Đồng chí nói… con số đến cả một phần ba nhân loại ḱa mà!”

        “Không có đùa! Một phần ba chứ hai phần ba cũng phải … giết! Mày nằm trong con số đó…”

        “Nhưng… tôi đâu có phải là kẻ thù!”

        “Đă nói đi nói lại rồi! Ai cho rằng ḿnh không phải là kẻ thù th́ chính hắn là kẻ thù!”

        “Sao lại thế?”

        “Ai tự cho rằng ḿnh không có kẻ thù th́ chính hắn trở thành kẻ thù của tất cả mọi người! Bởi cớ sao? Bởi v́ cái tên đó, là mày chẳng hạn, suốt đời có bao giờ đấu tranh bảo vệ cho ai đâu… cho nên cứ tưởng là ḿnh không có kẻ thù. Tại mày ngu ngơ không biết đó thôi, chán vạn kẻ căm ghét mày, coi mày là kẻ thù của họ. Có đúng không?”

Thầy bắt đầu cảm thấy chờn chợn, rờn rợn trước cái lư lẽ ghê gớm, chết người đó.

        “Nhưng… Tôi đă một đời yêu thương, quư trọng, cứu giúp nhiều người!…”

        “X́! Mày đă từng làm công chức cho Pháp, ăn lương của Tây… Đế quốc thực dân, địa chủ phản động, công giáo tay sai của Pháp, Việt gian bán nước cho Tây… Mày cũng thương yêu, cứu chữa, giúp đỡ… chúng nó? Hử?!”

        “Đâu có!” Thầy cảm thấy đuối hơi, chới với.

        “Này, hăy nghe ta hát khúc ca này. Nghe! Chúng ta thề phá tan quân thù: thực dân, đế quốc, sài lang với phe phản động ta đập tan à hoang!… Kết đoàn! Chúng ta là sức mạnh! Kết đoàn chúng ta là sắt gang! Đoàn kết ta bền vững! Dù sắt hay là gang. Dù sắt hay gang c̣n kém bền vững!… Cái bài ca hay nhất mà Bác Mao và Bác Hồ, cả hai Bác đều rất thích, mày lại c̣n không biết hay sao, hở Vỹ?”

        “Vâng, tôi cũng biết hát và thuộc ḷng bài Đoàn Kết đó, nhưng mà…”

        “Chẳng nhưng chẳng mà cái ǵ hết! Đế quốc, phản động… Chúng nó là kẻ thù! Chúng ở đâu mày biết không? Ở bên Tây, ở ngoài mặt trận và ở ngay… trong mỗi một cái thằng như mày. Đúng chưa? Mày đă từng học tập chính trị, chỉnh huấn… c̣n lạ ǵ nữa, biết tỏng ṭng tong rồi, thực dân đế quốc, Việt gian phản động… chúng nó nằm trong tư tưởng, ăn sâu vào tác phong của mày!”

        “Vâng, tôi hiểu, và tôi đă thành khẩn bộc lộ ưu khuyết điểm, phê và tự phê và tôi đă lột xác cải tạo, tẩy rửa… làm theo đúng yêu cầu của Cách mạng, của Đảng…”

        “X́! Mày th́ chỉ có khuyết điểm, làm chó ǵ có ưu điểm? Hử? Đă là địa chủ phản động th́ chỉ có cấu kết làm tay sai cho đế quốc chứ làm sao tẩy rửa, cải tạo, lột xác nổi! Hử! Mày là kẻ thù! Chính mày là kẻ thù một trăm phần trăm của nông dân, của dân tộc! Hiểu chưa? C̣n chối căi nữa hay thôi?”

        Lạ thật! Tự nhiên thầy thấy ḿnh thiểu số, nhỏ bé đến vô cùng tận. Cái Người-vô-h́nh này do Bác Mao đẻ ra, rồi ai đó kéo lôi vào đất nước ḿnh là hoàn toàn có lư và đúng đắn. Thế gian này ngập ngụa, chen chúc những kẻ thù. Con số một phần ba là chưa đủ, e chừng có khi hơn. Thầy đă học lịch sử Cách mạng Pháp. Đâu chỉ có vợ chồng Louis 16, nhà bác học Lavoisier… mà rồi đến cả Robespierre, người đă làm cho nhiều cái đầu rơi xuống, đến lượt cuối cùng là ḿnh rồi cũng… “porter sa tête sur l’échafaud”. Rơi đầu!” Cái đầu con người ta quan trọng là thế rồi có lúc cũng phập một phát, sật một cái… cắt đi, rời ra, rớt xuống… như củ khoai sọ! Người-vô-h́nh có lư lắm. Mai Duy Vỹ th́ đă là cái ǵ đâu!

        Thầy ngây thơ hỏi:

        “Dạ, nếu vậy th́… Trong gia đ́nh, cha mẹ, con cái, anh em, bà con… có là kẻ thù của nhau không? Thưa đồng chí…”

        “Trước khi trả lời mày, ta muốn xác định rơ: Ta không có đồng chí, đồng rận ǵ với mày hết! Mày là kẻ thù kia mà! Đă nói rồi, lại quên sao?”

        “Nhưng mà…” thầy nói ngay để cho hắn không kịp ngắt lời. “Đồng chí, đồng rận ǵ ǵ nữa, rồi cũng có lúc trở thành kẻ thù của nhau! Điều ấy có lẽ… là không sai”.

        “Ừ… ừ… th́…” Hắn lưỡng lự. “Th́ cứ gọi là đồng chí cho nó xong. Cũng không sao! Đó là cái lối xưng hô tiện lợi nhất của thời đại chúng ta!”

        Tự nhiên hắn dịu giọng:

        “Đồng chí nhắc lại câu hỏi vừa nêu ra…”

        “Trong một gia đ́nh th́ ông bà, cha mẹ, anh em, bà con… có là kẻ thù của nhau không?”

        “Sao lại không nhỉ? Gia đ́nh là một xă hội thu nhỏ. Xă hội có đấu tranh giai cấp th́ gia đ́nh cũng có đấu tranh giai cấp. Không đấu tranh th́ gia đ́nh làm sao củng cố được khối đoàn kết liên minh vững bền? Vợ phải đấu tranh với chồng. Chồng phải đấu tranh với vợ… Con cái phải đấu tranh với cha mẹ! Ấy là chuyện thường ngày trần tục. C̣n trong đấu tranh chính trị th́ vấn đề giai cấp được ưu tiên, đặt lên trên hết! Lúc bấy giờ, quan hệ trong gia đ́nh là quan hệ giai cấp. Nghĩa là không phải chồng bảo ǵ vợ cũng phải tuân theo; cha mẹ nói ǵ con cái cũng phải nghe theo! Phải đấu tranh chống lại tư tưởng phong kiến, tàn dư bóc lột trong đầu óc họ. Và khi cần, phải tố cáo những hành vi phản động, chống phá giai cấp trước quần chúng, trước Đảng! Lúc bấy giờ, dù chồng ḿnh đi nữa th́ vẫn cứ là kẻ thù. Vợ phải đấu tố chồng! Dù cha mẹ ḿnh đi nữa cũng vậy thôi, là kẻ thù, con cái phải đấu tố cha mẹ! Dĩ nhiên, muốn đấu tranh th́ phải tố giác. Nói gọn và rơ hơn là muốn đấu th́ phải tố! Đấu tố! Đấu tố! Và… đấu tố!”

        “Đồng chí nghĩ ǵ khi dân gian người ta nói: “Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một ḷng thờ mẹ kính cha, cho tṛn chữ Hiếu mới là đạo con!… Anh em, như thể tay chân…”

        “X́! Chuyện cũ xưa rồi! Cha mẹ sinh chúng ta ư? Đúng vậy. Nhưng khi họ nuôi chúng ta lớn lên rồi, chúng ta lại thuộc về Giai cấp, về Đảng. Tổ quốc, Đồng bào là trên hết! Cha mẹ sinh con ra, nuôi dạy đến khi chúng nó lập gia đ́nh, sinh con cái… rồi chúng nó cũng thành cha mẹ. Nếu nói cha mẹ là trên hết th́ ông bà là bố mẹ đẻ ra cha mẹ, lại c̣n phải đặt lên trên nữa, rồi c̣n cố kí, cụ kị đẻ ra ông bà… th́ sao? Cái này trên cái nọ, cái nọ trên cái kia, cái kia trên cái nớ, cái nớ trên cái í… Cái kiểu sắp xếp ngôi thứ như thế chính là mầm mống sinh ra, nền nếp tạo dựng thành chế độ phong kiến! Cực kỳ nguy hiểm! Trung với Nước hiếu với Dân, thế là quá đủ! Khỏi phải khen chê, trách móc nhau. Đó là tiêu chuẩn sáng giá nhất để xếp loại Đạo đức của con người!”

        Hắn lại cao giọng ngân nga như hát:

        “Vợ chồng lấy nhau ư? Th́ đó là sự kết hợp tự nhiên giữa hai Cái Con, hai giống Đực Cái. Cũng tốt thôi! Chẳng có vấn đề ǵ! Tuy nhiên cũng phải điều tra lại ba đời, đánh giá bản chất, đề ra phương án hành động cho từng trường hợp theo quan điểm giai cấp đúng đắn.

        Chẳng hạn, nếu hai vợ chồng cùng xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ bần cố th́ vấn đề đấu tranh giai cấp chỉ c̣n là củng cố, xây dựng khối đoàn kết liên minh, vậy thôi. Nhưng nếu xuất thân từ hai thành phần khác nhau, th́ phải cương quyết đấu tranh giai cấp đến cùng để phân loại nhau, và nếu cần th́… loại bỏ nhau! Lấy ví dụ, vợ xuất thân từ thành phần bần nông, trung nông lớp dưới mà chồng là địa chủ phong kiến th́ dứt khoát vợ phải đấu tố chồng đến cùng!

        Nếu đồng chí lấy vợ lẽ, th́ con vợ hai, vợ ba của đồng chí thực chất chỉ là đứa ở cho hai vợ chồng đồng chí, bởi họ đă bị đè nén, chịu áp bức đến hai ba tầng! Cho nên, hai mụ vợ hai, vợ ba phải đoàn kết thành một khối liên minh công nông, vùng lên đấu tố mụ vợ cả và thằng chồng (tức là vợ chồng đồng chí)!”

        Phải bấm bụng, thót hốc đít để khỏi văi ra cười, thầy nói ngay:

        “Thưa đồng chí! Chẳng cứ ǵ phải lấy tới hai ba vợ, chỉ cần một vợ duy nhất thôi, đàn ông chúng ta cũng đă thường xuyên phạm tội áp bức, bóc lột đàn bà rồi! Cho nên tôi đề nghị, phải phóng tay phát động tất cả chị em phụ nữ, đàn bà vùng lên! Và mỗi gia đ́nh, phải để cho các bà vợ được đấu tố chồng! Chẳng phải họ đều là tầng lớp bị áp bức bóc lột cả hay sao?”

        Người-vô-h́nh dừng lại, ư tứ. Có thể hắn chưa quen mà cũng chẳng ưa lối đùa của bọn tiểu tư sản trí thức, cái bọn mà Bác Mao vẫn đánh giá xếp loại là chưa bằng cục cứt. Hắn xẵng giọng:

        “Mày định nói ǵ? Ám chỉ ai thế, Vỹ?”

        Thầy b́nh tĩnh trả lời với một sự tự tin rằng ḿnh đang áp đảo Cái Chết.

        “Tôi đang biện luận về sự áp bức giai cấp đúng như quan điểm hận thù giai cấp của đồng chí”.

        Thầy nh́n hắn tần ngần và lấy làm lạ về sự lựa chọn ngôi nhân xưng: Đồng chí! Hai tiếng Đồng chí vốn có từ bên Tàu, không phải, có lẽ từ bên Liên Xô qua Tàu, dịch nghĩa biến âm rồi lưu truyền sang ta. Hai tiếng đó cào bằng, xoá sạch, thay thế vào tất cả các ngôi thứ. Hăy coi chừng và cảnh giác! Đồng chí…

        “Được rồi. Cho đồng chí phát biểu ư kiến!”

        “Tôi nghĩ rằng, dù ai đi nữa, đă là một đồng chí chồng th́ đêm tới thường hay giở tṛ áp bức bóc lột đồng chí vợ. Cái lề thói cũ xưa bắt đàn bà nằm dưới để đàn ông chồm đè lên trên là bắt nguồn từ bản chất, xuất phát từ quan điểm phong kiến mà ra. Ngay cái chuyện đó thôi đă nảy sinh mối thù mang tính giai cấp rồi.

        Nói như vậy có nghĩa là tất cả các đồng chí từ Mao Chủ tịch vĩ đại trở xuống đều gây ra mối thù giai cấp, mâu thuẫn đối kháng. Cho nên, bây giờ ta phóng tay phát động cho các đồng chí đàn bà vùng lên, đảo ngược trở lại, để họ nằm lên trên, bắt các đồng chí đàn ông nằm xuống dưới. Như thế may ra mới xoá bỏ được phần nào ách áp bức phong kiến, mối hận thù giai cấp. Có phải không ạ?”

        Người-vô-h́nh im lặng, không thấy phản ứng ǵ. Cuối cùng hắn nói: “Giai cấp tư sản, bọn tư bản Phương Tây vẫn ưa làm cái tṛ đảo ngược đó. Chúng cho đàn bà nằm lên trên, đàn ông nằm ở dưới… Nhưng xét cho cùng, đó chỉ là tṛ cải lương giả hiệu, không phải là Cách mạng, chẳng giải quyết được yêu cầu cấp thiết ǵ của quần chúng Công Nông Binh…”

        “Nếu vậy th́… hay là… ta sắp xếp lại hai lực lượng cách mạng này cho nó ổn thoả hơn: Không nằm nữa mà cùng đứng, mặt đối mặt, áp sát vào nhau! Thế là, hết áp bức bất công, hết hận thù giai cấp! Ha! Ha! Ha!”

        “Cười cái ǵ?” - Người-vô-h́nh hét lên - “Toàn là những tṛ Cách mạng giả hiệu cả. Đâu phải là Cách mạng thật sự, Cách mạng chân chính! Phải tiếp tục làm Cách mạng vô sản! Phải chuyên chính đến tận cùng! Sau cuộc Cách mạng trời long đất lở này phải tiếp tục làm cuộc Cách mạng đất lở trời long khác! Cách mạng không ngừng!”

        “Nếu vậy th́ đến khi nào mới thôi Cách… cái mạng?”

        Thầy hỏi lại, dẫu rằng có hơi vui đùa, mà sao ḷng thầy đầy xúc động hân hoan. H́nh như cảm nhận được sự băn khoăn chân thật đó, Người-vô-h́nh cũng đắc ư và hào hứng:

        “Đến khi nào trên toàn thế giới xây dựng xong chủ nghĩa Cộng sản, xoá bỏ hết giai cấp… Đă nói từ lúc năy. Quên rồi à? Khi nào tất cả các nước đều nhổ vứt hết các cột mốc biên giới, chẳng ai thèm lấn chiếm của ai một tấc đất; tất cả đều là của chung, của anh cũng là của tôi. Bốn phương vô sản đều là anh em. Đất nước Việt Nam là của Trung Quốc… Và… Tổ quốc Trung Hoa là Mẹ chung của tất cả chúng ta! Bác Mao nào phải đâu xa, Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao! Ha ha!

        “Có nghĩa là… đến cái ngày con anh cũng là con tôi, vợ của anh cũng là vợ… của tôi!…”

        “Vỹ!” - Hắn hét to - “A? Thằng này láo nhỉ? Mày đă nhận ra cái tội lỗi của mày chưa?”

        Sự chuyển đổi đột ngột trong giọng điệu thái độ của Người-vô-h́nh khiến thầy hụt hẫng loạng choạng. Mối thù giai cấp, mâu thuẫn đối kháng giữa người với người, giữa hai cái giống đực cái theo kiểu này th́ đời đời kiếp kiếp e cũng không thể nào hết được. Mà có lên tới chủ nghĩa Cộng sản đi nữa, có khi đă không giảm bớt lại c̣n gia tăng rắc rối, ác nghiệt hơn!

        Thầy ấp úng:

        “Tôi thừa nhận rằng tôi có bóc lột bà con nông dân, đúng thế, nhưng tôi không có áp bức ǵ ai cả, ngoài vợ tôi… Đó là theo quan điểm đấu tranh giai cấp của đồng chí mà tôi suy diễn, chứ thực ra hai chúng tôi xuất thân cùng một giai cấp. Có khác chăng tôi là địa chủ phong kiến, c̣n vợ tôi là địa chủ… nông dân. Cùng một bản chất giai cấp giống nhau làm sao có mâu thuẫn đối kháng? Tôi thương yêu vợ con tôi, tôi chẳng thù ghét ai trên đời này cả. Tôi chưa hề làm hại ai, trái lại…”

        “Vỹ!” - Người-vô-h́nh gằn giọng, nghe c̣n rơ và dữ dằn hơn gầm thét. - “Giờ tận số đến rồi mà mày vẫn c̣n ngoan cố hử? Tao nhắc lại cho mày nghe. Mày là tên địa chủ cường hào gian ác, phản động bán nước; vợ mày là con mẹ địa chủ bóc lột, hà hiếp, áp bức bà con nông dân. Mày phải khép vào tội chết và chịu án tử h́nh! C̣n vợ mày, con cái mày th́ cho sống để lao động cải tạo, trả nợ đền ơn bà con nông dân bần cố cho đến tàn đời, hết kiếp nghe chưa?”

        Người-vô-h́nh vụt biến sau cánh cửa khoá hai ṿng xích sắt.

        Vệt sáng đỏ từ tay hắn vừa phóng ra nhắm thẳng vào đầu thầy. Một tiếng nổ không to lắm nhưng rất chói và đau xé.

        Thầy ngật người ra sau, đổ vật xuống nền nhà.

 

 

CHƯƠNG 39

ĐỒNG HỒ SỐNG. SỰ SỐNG TRONG

SIÊU NHÀ TÙ, SIÊU ĐỊA NGỤC

 

        Trời vẫn tối! Không hiểu bây giờ là mấy giờ?

        Đă lâu rồi thầy mất thói quen xem đồng hồ, coi giờ. Tự nhiên nhớ lại hai cái đồng hồ ḿnh đă dùng trong đời.

        Cái đồng hồ quả quít Thụy Sĩ thầy mua vào những năm 40 ở hiệu Tàu có sợi dây bạc đeo cất, bỏ túi… rất tốt. Dạo ấy Lệ Uyên chưa sinh. Một lần thầy bỏ quên, đánh mất nó ở đâu cũng không biết. Bà nội có ư ngờ cho anh Nuôi. Mẹ th́ lại nghi chú Đông. Cũng chỉ v́ vậy mà anh Nuôi khóc lóc, thề thốt, doạ nhảy xuống giếng tự tử. Mẹ chồng con dâu căi lộn. Bà vẫn thường bênh che cho chú Đông, kể cũng lạ, và có phần khắt khe với con đẻ, con dâu!

        Cái đồng hồ thứ hai đeo tay nhăn hiệu Niklès - Made in France là của một đồng chí tặng.

        Tiểu đoàn trưởng Lê Hải Ba được thầy mổ ruột thừa, sau khi lành đă cởi tháo đồng hồ đặt vào tay thầy. “Tôi tặng anh vật này làm kỷ niệm. Có thể một ngày nào đó chỉ c̣n lại nó trên đời này và… anh sẽ nhớ đến tôi…” Đồng chí ấy nói mà rưng rưng nước mắt. Thầy từ chối không nhận.

        Hồi ấy đồng hồ là vật quư hiếm. Cái Nikles lên dây cót đó phải mua ở Hà Nội hoặc vùng tề đưa ra. Dẫu rằng một mạng sống được cứu sinh là chuyện ân nghĩa khó quên, thầy cũng không nỡ nhận món quà quư của bệnh nhân mà bệnh nhân đó là một đồng chí, một người lính Cụ Hồ.

        “Người thầy thuốc rất cần đồng hồ, cần hơn ai hết, anh giữ lấy nó… cho tôi vui ḷng.” Tiểu đoàn trưởng nài nỉ.

        Bây giờ nhớ lại, nghĩ tới câu nói của đồng chí ấy mà thấy như điềm gở... “Chỉ c̣n lại nó trên đời này”. Quả đúng thế. Tiểu đoàn trưởng pháo binh đă hy sinh ở mặt trận Điện Biên, c̣n Mai Duy Vỹ này mạng sống đang được đếm từng giây, từng phút…

        Đột nhiên, thầy đặt tay lên phía trái ngực và kinh ngạc cho trái tim ḿnh. Tic tac! Tic tac! Nó vẫn c̣n đập? Thật kỳ lạ. Tic tac tic tac… Đă bao năm rồi, mỗi lần cầm ống lắng đặt lên ngực bệnh nhân, dùng ngón tay bắt mạch bệnh nhân mà sao y sĩ Mai Duy Vỹ lại không cảm nhận được trái tim con người mới là cái đồng hồ đích thực. Cái đồng hồ đếm đo mạch sống của con người vô tư, hào phóng, kỳ diệu phi thường! Ôi trái tim con người chúng ta!

        Quả tim Mai Duy Vỹ vẫn c̣n đập! Thầy muốn la to lên cho mọi người nghe, cho cả nhân loại biết.

        Nhịp đập đầu tiên của nó là lúc c̣n nằm trong thai mẹ! Mẹ ơi! Mẹ đă cho con một sinh mệnh, một đời sống. Vậy mà bây giờ người ta lại nỡ cướp nó, giết nó đi! Con có tội t́nh chi! Đă không được sống để báo đền ơn sinh thành của thầy mẹ, lại c̣n để người ta giết mẹ ḿnh đi! Làm con mà không cứu sống được mẹ sao c̣n có thể gọi là con, là mang tội bất hiếu bất nghĩa biết mấy lần! Trời đất ơi!

        Thầy bưng mặt khóc. Khóc không thành tiếng. Và ngạc nhiên sao ḿnh vẫn c̣n nước mắt để mà khóc? Điều kỳ lạ! Vậy là sự sống trong con người ḿnh vẫn c̣n? Lần này, nếu họ không giết thầy, cho thầy ra khỏi nhà tù, chắc thầy lại sống, tiếp tục sống như mọi người được tha khác. Nhưng cái buồng giam trong đ́nh làng này nghĩ cho cùng không thể gọi là nhà tù được. Nó đâu có giống Hoả Ḷ, Lao Bảo, Kontum, Côn Đảo… Nó là Siêu nhà tù! Siêu địa ngục!

        Con người là một động vật kỳ lạ! Thầy nghĩ ngợi miên man. Nếu ḿnh là con chó, con mèo, con trâu, con ḅ… ừ cứ cho là con cọp đi nữa, mà bị ngược đăi hành hạ như thế này chắc chắn là nó đă chết trong một thời gian ngắn, vài ngày, dăm mười ngày!… Vậy mà Mai Duy Vỹ này vẫn c̣n sống, vẫn chịu đựng được mọi ngón đ̣n hiểm hóc, tai ác, chết người!

        Sự chịu đựng, sức sống này có từ đâu? Có phải từ trong bào thai mẹ sinh ra? Có đấy. Nhưng chỉ một phần thôi. Sức đề kháng, thích nghi kỳ lạ này lại chính là do nhà tù sinh ra. Ai có ở tù mới hiểu được điều này. Hơn hết mọi nhà tù trên thế gian này là nhà tù Cải cách Ruộng đất! Nhà tù Siêu phong kiến! Nhà tù Siêu đế quốc!

        Cảm thấy ḿnh như vừa khám phá ra được điều ǵ mới lạ, một phát minh trong Y học, thầy nở một nụ cười ngây thơ…

        Nụ cười chợt tắt. Ḍng lệ từ trong hai hốc mắt lại ứa ra.

        Nước mắt ḿnh vẫn c̣n? Vậy là ḿnh vẫn sống. Câu hỏi, câu trả lời cứ lặp đi, lặp lại.

        Mai Duy Vỹ này đă tận mắt thấy con người ta lúc lọt ḷng mẹ, cất tiếng khóc. Chính bàn tay Vỹ đỡ đẻ và không ít người đă ngợi khen là khéo tay mát tay hơn cả các cô đỡ Sage-femme. Nghiên, Hoà, Lan… các cô đều mê Vỹ!

        Vỹ đă thấy ḍng lệ người mẹ trào lên má, giọt nước mắt trẻ sơ sinh hiện ra cùng tiếng khóc: Tôi đă sinh ra một con người cho đời! Tôi là một con người đây!

        Mà đâu chỉ con người, Vỹ đă từng thấy con chó Vện khóc, con trâu cái nhà ḿnh khóc… lúc chúng nó chết. Thế đấy! Vậy mà bây giờ những giọt nước mắt của Mai Duy Vỹ đang trào ra đây lại không có một con người nào trông thấy cả. Có ai thương xót Mai Duy Vỹ này không?

        “Không!”

        Tiếng búa nện. Phát súng nổ. Chát chúa lỗ tai. Buốt nhói cả tim óc.

        Thầy gục xuống. Chẳng cần tới một nhát búa, một phát súng ḿnh cũng đă chết. Và đang chết đây!... Thầy nằm yên không động cựa.

 

 

CHƯƠNG 40

QUỶ NGƯỜI - NGƯỜI QUỶ

 

        Có tới bảy tám con quỷ… Thầy đoán chừng vậy. Bởi v́ nh́n toàn thân th́ có vẻ giống giống con người, cũng hai chân hai tay, nhưng cái mặt th́ khang khác, là lạ…

        Nếu là con trâu, con chó, con cọp… th́ cái sừng, cái mơm, móng móng vuốt của chúng đều biểu thị cái ǵ đó thuộc về ṇi giống của chúng. Đằng này… đít giống như mặt, mặt na ná như đít? Mắt và mồm là hai cái lỗ - mồm ở trên, mắt ở dưới. Và h́nh như… chúng có đuôi? Cái đuôi thay cho cái tay, ngoắc ngoéo, móc nối nhau biểu thị sự đồng cảm, đồng t́nh. Đặc biệt hai cái tay xoè cụp, rung rinh… rất nhạy bén trước mọi tiếng động, trạng huống. Chúng nói với nhau những ǵ thầy không nghe rơ. Ao áo, nháo nháo… báo cáo… láo nháo… xạo xạo… đả… ảo… đảo … đảo… í í… lí bí… chí chí… đồng ư…

        Hồi nhỏ, ḿnh cứ suy từ loài vật mà h́nh dung ra con quỷ. Đầu trâu mặt ngựa có ǵ đáng xấu đâu. Thật sai lầm! H́nh như đoán ra được ư nghĩ của thầy, bọn quỷ biến h́nh trở thành những bóng đen. Trông chúng lại có vẻ giống con người hơn. Thầy bắt đầu so sánh phân loại bằng cách lặp đi lặp lại hai mệnh đề tương phản nhau: con người là con quỷ - con quỷ là con người. Rồi, người là quỷ - quỷ là người. Rồi người-quỷ, quỷ-người… quỷ-người, người-quỷ!…

        Thầy lặp đi lặp lại như một tṛ chơi lúc c̣n học lớp đồng ấu, tiểu học.

        Hồi ấy, thầy và chú Đông ngồi đối mặt với nhau, giơ tay ra vỗ chéo vào bàn tay nhau, miệng th́ kêu: chó, mèo… mèo chó… Cứ thế tranh nhau nói; cho đến khi nào mỏi mồm, ră mép, răng lưỡi va cắn vào nhau… Rồi cuối cùng, dừng lại. Một tay anh này chỉ vào mặt anh kia la lên: “Chó!”

Con chó, con mèo biết con nào xấu hơn con nào? Con chó có ǵ là xấu đâu! Vậy mà chú Đông vùng vằng, ấm ức đến phát khóc; lại chạy vào mách với bà nội là anh Vỹ anh ấy bảo con là con chó! Và bà th́ lúc nào chả thế, lại bênh thằng Đông, đe mắng thằng Vỹ!

        Bây giờ thầy đang thử cố sức lặp đi lặp lại hai tiếng người-quỷ, quỷ-người… và định bụng đến một lúc nào đó, hết hơi rồi, hoặc lư trí không c̣n kiểm soát, chế ngự được đầu óc nữa th́… cái tiếng cuối cùng ấy là một phán quyết đúng đắn nhất.

        Người… quỷ!

        À ra vậy. Con người chính là con quỷ! Ông Pasteur khi t́m ra vi trùng bệnh chó dại - khám phá ấy cũng chưa quan trọng bằng phát minh này của Mai Duy Vỹ! Phát minh này sẽ mở ra con đường mới, tránh cho nhân loại bao thảm họa tai ương.

        H́nh như bọn quỷ này đă nhận ra mưu đồ, biết được tư tưởng, nắm chắc quan điểm chính trị của Mai Duy Vỹ… Cả lũ xúm lại, vật ngửa, chận đè lên người thầy:

        - Không cho nó ngóc đầu dậy!

        Một con kêu lên. Mấy con kia chồm tới, bóp cổ thầy một lúc cho đến nghẹt thở rồi từ từ buông ra. Con lớn nhất, cũng là đầu đàn, lănh đạo cả lũ, dựng thầy ngồi dậy, dùng tay bịt mồm. Con nhỏ hơn, cũng thuộc hàng lănh đạo, chổng đít lại, lấy cái đuôi ngắn ngủn ngoáy ngoáy chọc chọc vào hai lỗ mũi thầy…

        - Mặc quần áo liệm vào cho nó! Mau lên, Quân Chủ lực!

        Hai ba con cùng “dô nào” bắt tay ngay vào việc. Chúng làm nhanh đến nỗi ḿnh chưa kịp vùng vẫy, đă mặc gọn vào người một bộ áo bằng vải xô trắng, thứ vải thô tháp mà người ta thường khâm liệm khi đặt tử thi vào quan tài…

        Thầy hoảng sợ, kinh hăi định la thét lên th́ lạ chưa, lũ quỷ bỗng chốc biến đi đâu hết?… Chỉ c̣n một ḿnh Mai Duy Vỹ, thầy của mẹ và các con giữa cơi Trần gian.

 

 

CHƯƠNG 41

ĐẤNG CHÍ TÔN, CHÍ THÁNH, CHÍ THẦN…

 

        Thầy đang đứng ở một con đường.

        Nh́n quanh chẳng thấy cái ǵ hết. Không một mái nhà, không một con người, con vật, không một bóng cây. Màu trắng đục bao quanh, không phải mây, chẳng là sương mù. Chẳng có h́nh bóng ǵ cả. Sắc sắc không không. Bỗng nhiên thầy nhớ tới bốn tiếng trùng âm ông nội con nói ngày xưa… Sắc sắc không không… Có lần thằng c̣ Vỹ ở truồng, chẳng mặc quần áo, từ ngoài giếng vừa tắm xong, chạy vào nhà la lên: “Không không sắc sắc giơ cặc ḷi cu… ḿnh mẩy thu lu, ai cho th́… đút!” Chẳng hiểu ai bày cho thầy, anh Nuôi th́ phải, cứ thế mà ca mà hát… Từ dưới bếp tới trên nhà, ai nấy được một mẻ cười no nê.

        Hôm đó, ông Cử Mai, ông nội con đang tiếp ông Cử Hồ bên Hà Trung sang chơi. Mỗi lần gặp nhau ngồi bên ghế trường kỷ hai ông Cử thường hay nói chữ. Ngoài “sắc sắc không không” lại c̣n “vô vi”, “tri túc”… thầy chẳng hiểu ư nghĩa của những cái đó là ǵ?

        Thấy mọi người vui cười hoan hỉ, lại bắt gặp con ḿnh đang nồng nỗng ngoài sân trông như thằng ngộ, trước mặt khách, bậc túc nho tri kỷ, ông nội con bất b́nh đứng dậy, bước ra sân, hỏi chuyện đầu đuôi rồi nắm tay thầy lôi vào nhà bắt nằm sấp xuống phản, thong thả hỏi tội, quất cho hai roi vào mông đít…

        Chữ nghĩa thánh hiền, chuyện thần thánh, sao lại dám đem ra đùa cợt? Đứa nào xui? Đứa nào bày? Nhớ lấy!

        Bây giờ cái sắc sắc không không ấy đang vây quanh thầy.

        Thầy chợt nghĩ, đă sinh ra con đường là để cho người ta đi; ḿnh phải đi, không thể cứ đứng măi ở đây được. Thế là thầy cất bước. Vừa bước đi dăm chục bước, chưa ǵ đă dừng chân. Ngoái lại nh́n, th́ lạ chưa, đoạn đường phía sau lưng ḿnh không thấy nữa, biến đi đâu mất? Sắc sắc không không. Thầy suy lí: Vậy là con đường này chỉ có mà đi tới, đi tiếp, muốn dừng chân để quay trở lại cũng không được. Con đường ǵ mà lạ nhỉ? Nhưng ta đang đi đâu, đi để làm ǵ?

        - Mai Duy Vỹ!

        Một tiếng kêu từ trên cao vọng xuống.

        Thầy sững sờ ngước nh́n. Tia chớp lửa loằng ngoằng vẽ một con đường giữa trời như con rắn đỏ. Tiếp liền, tiếng sét nổ không to lắm mà sao chói tai, buốt óc, rợn cả người.

        - Mai Duy Vỹ!

        Thầy giật ḿnh đứng sững nh́n cảnh tượng lạ lùng. Trước mắt bây giờ chẳng c̣n sắc sắc không không nữa mà da trời phía Đông, thầy tin là phía Đông, có lẽ ma xui quỷ khiến như vậy chăng, đang ửng lên một màu hồng sáng. Con rắn khi năy bây giờ biến thành con rồng lửa uốn lượn, khép ṿng. Ô ḱa! Một cái ngai màu đỏ. Những tia vàng loé ra từ Ngai Đỏ và một vị Vua, chỉ có thể là một Hoàng Đế thôi, đang ngự trên đó.

        Theo thói quen, tính cố hữu trong khí huyết, cân năo của một người dân nô lệ Á Châu, đầu gối chưa ǵ đă ră khớp, hai ống chân nhũn mềm ra như bún, thầy vội vàng quỳ xuống…

        - Mai Duy Vỹ!

        Âm giọng rền vang nghe như lưỡi gươm khua, viên đạn rít trên đầu.      Thầy vội vàng lắp bắp:

        - Muôn tâu Bệ hạ!

        - Ta không phải là Vua, chẳng phải Tổng Thống. Hăy nh́n lên đây!

        Thầy ngửa cổ, rướn đầu cao hơn:

        - Ta là Đấng Chí Tôn, Chí Linh, Chí Thánh, Chí Thần, Chí…

        Vừa sợ hăi lại ṭ ṃ, thầy trố mắt nh́n. Một mái đầu tóc trắng như mây, vuốt ngược, loà xoà hai bên vầng trán rộng… Đôi mắt ánh lên tinh thần của khoái lạc và thủ đoạn, hoà điệu theo miệng cười giả trá, hơi tuồng kịch… Cái mặt vừa giả lại vừa thật có một sức hấp dẫn đến nỗi thầy ngây dại nh́n và môi nở nụ cười.

        - Mai Duy Vỹ!

        Âm giọng nghe rơ ràng, đanh rắn từ trên cao vọng xuống.

        - Ta đây! Ta là người nô bộc trung thành của muôn dân. Hăy nghe và trả lời những câu hỏi của ta!

        - Dạ. Con cũng là… - Thầy lắp bắp - đầy tớ của nhân dân…

        - X́! Mi là thằng địa chủ phản động, bán nước hại dân… lại không tự biết ḿnh hay sao?

        - Dạ, tôi là địa chủ - Thầy ngập ngừng suy tính. Đang từ con chuyển sang tôi, thầy bỗng hốt và sợ, như hai lần đấu quỳ trước các ông bà nông dân. Trót đă lỡ lời… - Nói cho thật đúng, cha đẻ ra con mới thật là địa chủ, con là công chức, cán bộ… Nhưng chối căi điều đó, con lại là một đứa con bất hiếu với cha mẹ… Vâng, con là địa chủ. Nhưng con đâu có phản động, bán nước, hại dân!

        Im lặng một lúc. Hoàng Thượng ngự trên Ngai Rồng Đỏ h́nh như ít nhiều có phân vân. Người thong thả điệu nghệ vuốt cḥm râu bạc…

        - Không ai tin điều mày nói cả.

        - Dạ, làm sao vậy? Kính thưa…. Muôn tâu… Dân người ta không tin hoặc phủ nhận cố t́nh, điều đó có thể hiểu được, bởi họ bị vây bọc, đè nén trong ṿng ngu muội, bùa mê, tăm tối, dốt nát… nhưng c̣n Đấng Chí Tôn, Chí Linh, Chí Thánh… Người thấu suốt cả sáu cơi…

        Đấng Tối Cao cười, lấp lửng.

        - Ngươi quên rằng… Ta cũng chỉ là kẻ nô bộc trung thành của muôn dân thôi hay sao?

        Thầy gân cổ, căi lư:

        - Con cũng là đầy tớ… của dân. Vào Đảng năm 1948, cho đến nay tính ra đă 7 năm v́ nhân dân phục vụ, quên ḿnh hy sinh…

        Đấng Tối Cao cau mày, ra chiều lưỡng lự, cân nhắc:

        - Biết vậy. Nhưng mà…

        - Nhưng mà sao ạ?

        Thầy chắp hai tay trước ngực, chờ đợi, cầu khẩn.

        Có tiếng súng nổ vọng lên đâu đó, nghe xa mà lại gần. Thầy rùng ḿnh cố giữ hai đầu gối sao cho vững, t́ trên đất.

        - Đồng chí Vỹ! Nghe đây - tiếng sấm truyền từ trời cao xuống - Ta biết anh vô tội, ḷng anh trong trắng. Nhưng… ta không thể cứu anh được. Mà cho dù ta có muốn cứu anh, ban lệnh xuống th́ đă chắc ǵ quần chúng nhân dân người ta nghe cho? Cải cở thủ ti - Cải cách Ruộng đất là cuộc Cách mạng lớn nhất trong lịch sử đấu tranh giai cấp của dân tộc, mang tầm cỡ nhân loại… Trong cơn trời long đất lở này, sóng thần Cách mạng đang ào ào dâng cao, cuộn tới, bánh xe lịch sử đang lăn đi... Ai người bị cuốn trôi, nghiến nát âu cũng là lẽ thường t́nh. Miễn sao Cách mạng Thế giới đạt được thắng lợi cuối cùng!

        Có một người phụ nữ ḷng dạ c̣n trong trắng tốt đẹp hơn anh, c̣n đáng thương, đáng quư hơn anh ở cách đây không xa lắm… Một người đàn bà! Ta đau ḷng nhắc lại: Một người đàn bà! Anh đă nghe rơ chưa? Vậy mà ta cũng không cứu được! Mong anh thông cảm cho ta…

        Đấng Chí Tôn vụt biến. Trong mây mù c̣n vọng lại tiếng sấm rền xa xa.

        - Ta... không… thể… cứu anh được!

        Thầy đổ vật người xuống, nằm lăn ra giữa đường.

 

 

CHƯƠNG 42

PHÚT GIÂY… VĨNH BIỆT!

 

        Mở mắt… Thầy thấy mẹ đang ngồi ở cái ghế nhỏ trước mặt.

        Vẫn chưa tin đó là mẹ của các con. Trời ơi, mẹ gầy ốm sút đi đến không thể nhận ra. Có ai tin được rằng vợ của Mai Duy Vỹ, bà y sĩ ngày xưa mà bây giờ c̣n thảm hại hơn mụ ăn mày năm đói Ất Dậu 45! Làm ǵ được là đứa ở, con nuôi, đầy tớ nhà họ Mai!

        Mẹ nói, ông Đội trưởng người Nghệ An cho phép vợ Mai Duy Vỹ được vào thăm chồng… Nói xong, hai tay ôm mặt khóc. Thầy bảo, đời người sớm muộn rồi ai cũng một lần ra đi. Anh sắp được gặp lại thầy mẹ, ông bà, tổ tiên… Ḿnh em khóc thế đủ rồi, khóc nữa kiệt sức, dành sức ở lại mà nuôi con… Mẹ nói, ḿnh cứ yên ḷng mà ra đi. Một phần đời em đă để dành ra phụng thờ ông bà, tổ tiên, th́ nay phần c̣n lại, xin trọn đời thờ chồng! Anh đừng quá lo mà tâm linh làm bối rối, xao xuyến người ở lại. Trời sinh voi sinh cỏ. Các cụ đă dạy rồi. Mẹ con nhà Vỹ sẽ vượt qua cơn hoạn nạn này. Người ta không cho ḿnh ăn cơm th́ ḿnh ăn rau, ăn cỏ. Cùng đường th́ ăn cóc, ăn nhái, ăn châu chấu… miễn là sống được!

        Thầy bảo, nếu c̣n sống sót, em gắng nuôi dạy các con nên người. Đói cho sạch, rách cho thơm. Dù trời long đất lở, xă hội loạn lạc, nhân t́nh đảo điên, vợ con cũng phải cố mà giữ lấy phẩm chất, danh dự, đức hạnh của ḍng họ Mai…

        Thanh Tâm, Lệ Uyên dẫu là con gái, chúng nó vẫn đại diện cho ṇi giống, phẩm tiết của ḍng họ Mai. Đầu tháng này, Lệ Uyên bị ngộ độc sắn, không ai vào báo cho thầy biết, chẳng ai cứu chữa cho con tôi cả, quằn quại ôm bụng suốt cả một đêm, may mà qua khỏi. Phúc phận nhà họ Mai vậy là vẫn c̣n. Ôi, Thanh Tâm, Lệ Uyên, các con của tôi, nỗi đau lớn nhất của thầy trước lúc ra đi là không được ôm các con vào ḷng!

        Câu chuyện trao đổi tới đó th́ anh dân quân vào báo Đội bảo hết giờ rồi, vợ thằng Vỹ phải ra ngay! Ừ th́ nhờ ơn Đội mà vợ chồng Vỹ, thầy mẹ các con, c̣n được gặp nhau. Đội mà không cho th́ cũng đành chịu!

Mẹ nh́n thầy: Vĩnh biệt! Nói được hai tiếng rồi quay ra, nón rách úp vào mặt, nức nở. Vĩnh biệt!

        Đất trời sụp đổ. Trần gian tan nát…

 

 

CHƯƠNG 43

NGÀY PHÁN XÉT CUỐI CÙNG.

ÁN TỬ H̀NH

 

        - Vỹ!

        Thầy hơi giật ḿnh, mở mắt ra. Họ vào khi nào mà ḿnh chẳng biết?

        Gần cả chục người đứng trong gian buồng chật, quần nâu áo nâu, đi chân đất, thật khó phân biệt. Định thần một lúc thầy mới dần dần nhận ra. Bốn người cầm gậy, quấn dây thừng. Một người vai mang khẩu súng trường mut-ca-tông. Một người có vẻ khác lạ bởi đôi dép lốp dưới cái xà cột bên hông, chắc là ông Đội trưởng. Từ khi bị bắt, sau hai lần đấu, có điều lạ là thầy vẫn chưa tận mắt nhận rơ mặt được ông Đội này. Nghe giọng nói, biết người Nghệ An, là bộ đội Cụ Hồ…

        - Tháo cùm ra, bắt ló đứng dậy!

        Y tá Toành nói, vung văng tay chân, điệu bộ ra vẻ chỉ huy. Họ xúm nhau lại tháo cùm. Ổ khoá ngoắc nối dây xích cũ rỉ rét lâu ngày khiến họ loay hoay, ngắc ngứ măi với ch́a khoá xoay vặn, kéo đi lôi lại làm vết loét hai cổ chân như bị cưa, bị cắt. Thầy kêu rên. Họ càng mạnh tay hơn.

Cùm lim vừa được tháo gỡ, lôi nhấc hai ống chân trầy trụa máu mủ, mụn nhọt ra… họ để thầy ngồi yên một lúc. Hai anh dân quân xốc nách thầy đứng lên. Thầy đổ vật xuống khiến hai chàng gầy ốm loạng choạng cũng muốn ngă theo.

        - Ló đói đấy. Ló chưa chết đâu mà no!

        Vẫn giọng Toành, khó lẫn vào đâu được.

        - Để cho ló thông cảm với cái khổ của bà con lông dân bị ḍng họ Mai nhà ló bóc nột đè lén hằng mấy mươi lăm lay.

        Không thấy những người kia nói ǵ. Họ đưa thầy ra ngoài cửa buồng giam, nói cho đúng hơn, cái buồng ngủ của ông từ canh giữ ngôi đ́nh làng ta bao đời nay.

        Ra trước sân đ́nh, cái hơi khí tự nhiên của Đất Trời làm ḿnh như được sống lại. Quên cả rét tháng chạp, phong phanh quần áo nâu rách, thầy ngước nh́n bầu trời xám: lớp lớp mây ùn ùn đang theo gió mùa đông bắc tràn về. Cảm tạ Đất Trời! Thầy muốn kêu lên. Lạy tạ Nga Sơn, Mẹ quê hương đă sinh ra con! Không nỡ tâm để Mai Duy Vỹ, đứa con tội nghiệp oan khốc phải chết trong buồng giam, nơi xó đ́nh mà được chết ở ngoài Đất Trời này! Chưa kịp chắp tay cúi đầu, quên mất rằng ḿnh đang bị trói trật cánh khuỷu hai tay sau lưng, xương khớp hai ống chân như đă gẫy ră ra, thầy khuỵu gục xuống sân đ́nh.

        “Thằng Vỹ đói! Phải cho nó ăn cái ǵ để nó tỉnh dậy rồi mới dẫn nó ra ngoài trường đấu được…”

        Có người đưa ra ư kiến như vậy. Giọng nói của một người xa lạ không phải người trong làng này. Một người đàn bà!

        Một người nữa lôi chiếc chiếu rách từ trong đ́nh ra trải phủ lên người thầy. Khoảng dăm mười phút sau, họ kiếm đâu ra được một khúc sắn luộc đă nguội lạnh, gại gại cọ cọ mồm thầy, bảo ăn đi… Sực nhớ tới lời các cụ năm xưa, ai đi về Bên Ấy mà không có cái ǵ lót dạ, người ấy sẽ trở thành con ma đói, lang thang vật vờ khắp Âm phủ… Đă bao lần trong nhà thương, chứng kiến cảnh người bệnh lúc sắp chết, cố gượng dậy để người nhà đút vào mồm th́a cháo, miếng cơm, ngậm cả thịt gà, thịt lợn… thầy cũng cố ngậm lấy khúc sắn và nhai… để c̣n kịp nhận ra quanh ḿnh hiện tại là những con người chứ không phải những con quỷ.

        Lạy trời! Lạy người! Con xin cắn cỏ ngậm vành cái ơn sâu người đàn bà nào đă động ḷng nghĩ tới chuyện cho Mai Duy Vỹ ăn cái ǵ đó trước khi chết!

        Thầy mở mắt… Bây giờ là mấy giờ? Buổi sáng hay buổi chiều?

        Đột nhiên, một con quạ đen năy giờ đậu trên nóc đ́nh rướn ḿnh, đập cánh rồi lao thẳng vào bầu trời như quả đạn moóc-chi-ê… Quạ… ạ! Qu… ạ! Nó kêu lên. Tưởng đâu nó biến mất, ai ngờ một lúc sau lại quay trở lại, bay một ṿng trên đầu mọi người. Quạ… ạ! Quạ… ạ! Họa! Họa!… Từ mỏ nó như vừa rớt ra một cái ǵ không phải con mồi mà là vệt máu!

        Rồi, thật trùng hợp kỳ lạ! Một bầy ong vỡ tổ, vù vù bay qua, cứ như một đám người chạy loạn, chạy giặc.

        Họ lại dựng thầy lên. Hai người xốc nách hai bên. Kéo lê lết đi được chừng mười bước, họ phải dừng lại. Hai chân thầy như đă gẫy đôi không thể nào đặt bước lên đất. Từ đây ra tới đấu trường-băi bắn c̣n cả một đoạn đường không phải ngắn. Chỉ c̣n cách là đặt thằng Vỹ lên xe ḅ rồi cho trâu kéo. Họ bàn nhau… Con trâu th́ có thôi nhưng xe ḅ kéo th́ kiếm đâu ra. Họ lại đưa ra sáng kiến cho Vỹ ngồi vào cái thúng, đặt vô quang gánh, rồi dùng đ̣n càn lồng vào quang gánh để hai người khiêng đi. Người đề xướng ra cách lối tiện lợi này là c̣ Toe, từ năy giờ đứng khuất ở phía sau, nhưng lập tức bị y tá Toành phản đối. “Nàm như thế hoá ra nà ḿnh hầu hạ địa chủ, khiêng cáng ló như ngày xưa khiêng vơng cáng quan huyện, như thế nà lô nệ…”

        Ư kiến của hĩm Xoa đưa ra xem chừng được hơn cả, tức là, trói chân trói tay thằng Vỹ lại rồi buộc nó vào cây luồng, thay nhau khiêng đi. Như thế, vừa nhanh chóng thuận lợi, đỡ mệt nhọc, mà lại c̣n hạ được uy thế của giai cấp địa chủ bóc lột, phản động…

        Rồi mặc cho thầy đau đớn kêu rên, họ làm xong công việc đó chẳng mấy khó khăn.

        - Đồng bào, đồng chí chú ư!

        Từ ngọn cây xoan gần trụ sở Uỷ ban cũ, một người ngồi trên hai chạc cây tay cầm cái loa sắt tây, mồm áp sát… đang đọc theo lời một người ngồi bên tay cầm tờ giấy có ghi những ḍng chữ…

        - Đồng bào, đồng chí chú ư! Đúng hai giờ chiều nay xin mời tất cả bà con ta, bần cố nông, Quân Chủ lực Nông dân, trung nông lớp dưới… không kể trung nông cứng, phú nông… trẻ già lớn bé, tập trung trước trụ sở Uỷ ban cũ, xếp hàng theo tổ chức đoàn thể… sau đó, chúng ta sẽ kéo quân ra trường đấu để tham gia đấu tranh, đấu gục tên địa chủ bóc lột phản động, thằng Việt gian bán nước Mai Duy Vỹ...!

        Hôm nay là 27 tháng Chạp, Đội sẽ thi hành bản án, tuyên án tử h́nh tên địa chủ phản động, thằng Việt gian bán nước Mai Duy Vỹ để bà con nông dân ta, các đồng chí chúng ta được ăn một cái Tết Nguyên Đán cho thêm phần vui vẻ, phấn khởi! A lố! A lồ!

        Như vậy là ḿnh sắp chết rồi. Họ giết ḿnh thật sự chứ không phải đem ḿnh ra đấu như hai lần trước đây.

        Cái Chết đến thật rồi mà sao Mai Duy Vỹ c̣n trông chờ… Trông chờ cái ǵ nữa! Mai Duy Vỹ vẫn c̣n ngây thơ, ngây thơ suốt cả một đời ư? Thậm chí, Vỹ c̣n nh́n lên mấy cành xoan trụi lá mùa đông và nhớ tới ngày nào!

        Lệ Uyên ơi! Ngày nào, năm nào đây thầy c̣n cơng con trên vai. Con nhong nhong ngồi trên đôi vai thầy, hai chân thơng xuống. Cha con ḿnh đi dạo mát buổi chiều, qua chỗ này đây… Mảnh trăng rằm hôm ấy hiện ra sau rặng cây xoan này, tṛn to và sáng đến nỗi khi thầy giơ tay chỉ cho con xem Ông Trăng ḱa, Ông Trăng đang đậu trên cành xoan, th́ bé Uyên cứ đ̣i thầy, thầy ơi, cho con Mặt Trăng! Đ̣i cho bằng được Mặt Trăng, dẫy nẫy lên, hai chân đạp đạp vào ngực thầy! Về tới nhà rồi mà vẫn c̣n đ̣i, c̣n khóc, chướng ách là thế… đến nỗi bà nội phải kêu lên: Anh Vỹ ơi! Anh nuông chiều con quá đấy, rồi anh làm hư con mất thôi! Phải nghiêm khắc với con…

        Ừ, thế đấy… Hoá ra một đời Mai Duy Vỹ cho tiền, cho gạo, cho thuốc men, cho cả bàn tay mổ xẻ, hiến cả xương máu… Cho không thiên hạ hết mọi thứ! Vậy mà rồi, có cái Mặt Trăng kia vẫn không làm sao lấy cho con gái ḿnh được. Đời vô lư, bất công là thế đấy!

        Chuyện tự nhiên, dễ hiểu thế mà sao Vỹ không thấy được! Vỹ không biết thương cho chính bản thân hắn, vợ con hắn, th́ bây giờ đến lúc cơ nhỡ này đây, c̣n ai vào đó mà cứu hắn được nữa! Hắn phải tội chết là… đáng đời!

        “Không có cái ǵ lạ dưới ánh sáng mặt trời!” Thầy chợt nhớ tới câu nói không biết ở đâu, của ai mà ông bác sĩ người Pháp ở nhà thương Thanh Hoá vẫn hay nhắc tới những lần gặp gỡ, mỗi khi bắt tay vào việc.

Và bây giờ ḱa, mặt trời đang mờ mờ rọi ánh qua đám mây ngầu đục trên đầu ḿnh kia cũng nhắc lại cho ḿnh biết cái Chân lư đó. Phải rồi, tất cả đều đảo điên, giả trá và lừa dối hết, chỉ c̣n lại đôi mắt của con tôi, đôi mắt của Lệ Uyên đang nh́n cha nó, đôi mắt ấy là thật. Thầy đang đếm từng phút, từng giây cuộc sống để tính xem ḿnh c̣n được sống với đôi mắt con hiện ra được bao lâu? Ôi! Con gái thương của thầy mẹ! Mai sau lớn lên xin con đừng oán trách cha!

        - Đặt nó xuống đây thôi!

        Người khiêng đằng trước bỗng thốt lên.

        - Tôi cũng găy cả xương bả vai ra.

        Người khiêng đằng sau phụ họa theo. Thầy không biết hai người này là ai, ở đâu trong xă này. Vừa nói xong cả hai đă quẳng vứt “thằng Vỹ” xuống bên đường. Họ làm nhanh đến nỗi thầy tưởng cột xương sống ḿnh gẫy đôi một cái rụp.

        Y tá Toành lên giọng cha bố:

        - Ló chỉ c̣n xương với da, lặng ǵ mà lặng đến lỗi phải bỏ ló nại đây hử?

        Hai người vặc lại:

        - Nặng chứ sao không nặng? Sao đồng chí không ghé vai vào mà lại bắt bọn này khiêng?

        - Từ sáng tới giờ bầy choa cũng chỉ được hớp cháo vào bụng…

        Y tá Toành vênh váo:

        - Tao ấy à? Đời lào tao khiêng! Cả một đời tao hầu hạ ló, ló áp bức đè lén tao chưa đủ sao hử?

        Ông Đội cất giọng Nghệ An phân xử:

        - Thôi mà, các đồng chí! Gắng thêm một đoạn nữa, đến lối rẽ vào đấu trường ta sẽ dừng lại, bắt nó đứng dậy, đưa dẫn nó vào. Các đồng chí có phải khiêng nó vào tận trường đấu đâu mà sợ! Thôi đừng căi nhau nữa! Gắng lên! Nào…

        Hai người dân quân lại đặt đ̣n ống lên vai. Nhất Đội nh́ Trời! Đội đă nói là họ phải nghe thôi.

        Ông Đội lư giải thêm:

        - Đến đó rồi, dù hắn có nằm liệt đi nữa, các đồng chí cũng dựng cổ dậy, kéo lết nó vô… để cho đồng bào, đồng chí tận mắt nhận dạng vạch mặt chỉ tên hắn… có như thế mới cổ vũ được tinh thần, nâng cao được sức mạnh đấu tranh!

        Quả nhiên, Đội khiến Trời xui thế nào mà họ khiêng vác thầy tới cái chỗ rẽ vào trường đấu rồi đặt xuống một cách nhẹ nhàng hơn, không đến nỗi dữ dằn như quăng tảng đá, ném con chó lúc năy. Tháo dây trói ra khỏi cây luồng, đ̣n khiêng, rồi để “thằng Vỹ” nằm trên băi cỏ một lúc, chính họ cũng ngạc nhiên thấy thầy chẳng những chưa liệt bại, chết ngắc mà c̣n cụ cựa rồi mở mắt ra nh́n. Thầy bắt đầu cảm nhận, hiểu ra, chính cái không khí tự nhiên ngoài trời đă làm cho ḿnh tươi tỉnh, khoẻ khoắn cho dù bị trói cột khiêng đi như con lợn, con chó.

        Ôi! Cái buồng giam khủng khiếp! Cái nhà tù kỳ quái rùng rợn đă giết dần giết ṃn ḿnh cả mấy tháng nay!

        Biển động. Ồ biển động. Rơ ràng thầy đang nghe tiếng sóng ầm ́, theo gió ŕ rào ngoài biển từ Ḥn Nẹ lùa vào đồng cói. Biển động. Gió thổi. Hơi thở của Đất Mẹ Nga Sơn lay động những cành cây ngọn cỏ, đang mơn man hai bên má thầy!

        Nhưng có một cái biển khác, biển người trên đấu trường đang ầm ào gào thét bên tai thầy, không thể lầm lẫn vào đâu được.

        - Đả đảo Mai Duy Vỹ, tên địa chủ cường hào áp bức bóc lột nông dân, thằng Việt gian phản động bán nước!

        - Đả đảo!

        - Đả đảo!

        Cái âm tiếng “đảo” kéo dài ra nghe ảo ảo, ào ào, rạo rạo như gươm đao cọ xát.

        - Có khổ nói khổ nông dân vùng lên!

        - Vùng lên!

        - Vùng lên!

        - Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!

        - Muôn năm!

        - Hồ Chủ tịch muôn năm!

        - Muôn năm!

        Lặng đi một lúc lại ầm ầm vang dội:

        - Đại nguyên soái Xiết-Ta-Liên muôn năm!

        - Mao Chủ tịch vĩ đại muôn năm!

        - Muôn năm! Muôn năm!

        - Hoan hô Người Anh Cả Trường Chinh!

        - Hoan hô đồng chí Hồ Viết Thắng!

        - Hoan hô! Hoan hô!

        Rồi ào ào tiếng kêu la lẫn tiếng gào thét hổ lốn, lẫn lộn:

        - Hoan hô các đồng chí Cố vấn Trung Quốc sang giúp ta đánh bại kẻ thù giai cấp, đấu gục bọn địa chủ ngoan cố phản động!

        - Hoan hô! Hoan hô!

        - Cải cách Ruộng đất long trời lở đất thắng lợi và thành công muôn năm!

        - Muôn năm! Muôn năm!

        Tiếng vỗ tay đồng loạt nhịp nhàng hoà theo tiếng hát của thiếu nhi lẫn thanh niên, xoay đi vần lại:

        Mí đồ đồ đồ phá mí rê

        Rế đô x́ đô rế xồn xồn

        Đồ mí! Rề phá!

        Mí rê đô xồn đô đô đô…

        Lại tiếp theo bài hát khác, có tiếng trống đệm nghe như tiếng súng, đứng tim dựng óc người ta lên:

        Chúng ta cùng nói v́ chúng ta căm thù

        Cùng tố rằng địa chủ giết người

        Loài rắn độc thâm hiểm nhất đời

        Nhớ lấy từng lời bần cố nông ơi!

        Chúng ta thề đánh vào đầu đế quốc!

        Nó thông đồng với địa chủ thu tô.

        Cùng tiến lên xây đời Tự do...!

        Rồi biển người lại cùng tấu lên, không ra hát cũng chẳng ra nói:

        - Liên Xô ngày nay là Trung Quốc ngày mai!

        - Trung Quốc hôm nay là Việt Nam ngày mai!

        - Ngày mai! Ngày mai!

        - Đời đời nhớ ơn Đảng ta vĩ đại!

        - Đời đời nhớ ơn Bác Hồ!…

        - Đời đời! Đời đời!

        - Nhớ! Nhớ!

        - Ời ời!

        - Ớ ớ!

        Long trời lở đất một lúc. Biển người Quân Chủ lực Nông dân lại im lặng. Im lặng lần này lạ lùng và khó hiểu. Cái bẫy đang ŕnh chờ con thú mồi… Nhưng bẫy hay không bẫy th́ c̣n để làm ǵ nữa, Vỹ ơi! Đời anh cũng đă sập xuống rồi!

        Tùng! Tùng! Tùng! Tùng!

        Một hồi trống vang lên nghe như ṇng súng bắn cách quăng rồi nhanh dần. Một hồi trống nữa tiếp liền. Tiếng vọng từ Âm phủ về, từ Địa ngục lên. Thầy giật ḿnh. Cả lũ cũng mất b́nh tĩnh.

        Ông Đội trưởng nói:

        - Các đồng chí dẫn Mai Duy Vỹ vào!

        Y tá Toành đứng gần bên, đế theo:

        - Thằng Vỹ đứng nên! Anh em ta dẫn ló đi!

        Hai anh dân quân cúi xuống, tḥ tay qua nách, xốc thầy ngồi dậy.

Họ định lôi đi, kéo lê cái xác chết Mai Duy Vỹ vào trong băi bắn như thế này hay sao? Một ư nghĩ thoáng qua. Tia chớp loé trong đầu. Cụ Cử Mai Duy Hiển, thân phụ ông Cử Mai Duy Hoà, người mà Mai Duy Vỹ gọi bằng ông nội, Mai Lệ Uyên gọi bằng cố nội… hiện ra? Cổ đeo gông, tay khoá, chân xiềng xích… Cố đang lê bước giữa hai hàng lính bảo hộ. Vừa là bạn, vừa là đồng chí của Đinh Công Tráng, cụ Cử họ Mai bị Pháp giết trong khởi nghĩa Ba Đ́nh. Ḍng họ Mai chúng ta dẫu thế nào, cũng không chịu mang khí huyết nô lệ trong người…

        Thầy khẽ gạt tay hai người dân quân:

        - Xin các ông cho tôi…

        Họ ngạc nhiên, dừng lại.

        - Cho tôi được đứng lên, tự đi…

        Thầy từ từ đứng lên, loạng choạng. Đất dưới chân như sụt lở…

        Y tá Toành lải nhải:

        - Ló giả vờ đấy. Ló đi được. Cái đồ địa chủ bóc nột, phản động, bán lước hại ḷi, đụng vào ló nàm chi cho bẩn nhớp tay chân…

        Thầy quay sang nh́n thẳng vào mặt hắn. Con rắn độc ngóc đầu trân trân nh́n lại rồi không hiểu sao cụp mặt xuống.

        Ông Đội trưởng sốt ruột, nói như gắt:

        - Đồng chí Toành! Đủ rồi, thôi đừng nói nữa! Khổ quá! Dẫn nó đi ngay!

        Thầy loạng choạng bước. Đă xuưt ngă chúi xuống, may có hai anh dân quân đưa tay ra đỡ…

        - Cảm ơn…

        Thầy nói lắp. Rét run và xúc động. Cảm ơn… Hai tiếng “merci”… cảm ơn đă phát ra thành thói quen suốt một quăng đời sống và làm việc ở nhà thương Thanh Hoá, không hiểu bây giờ là lần thứ mấy, có lẽ là lần cuối cùng!

        Cảm ơn. Thầy gắng sức đặt từng bước chân… Cảm ơn Đất Mẹ Nga Sơn đă cho con khí huyết, ḍng sống họ Mai, từ khi người con đầu tiên của ḍng họ - Mai An Tiêm - bị vua Hùng Vương thứ 4 phạt tội đày ra đảo xa ngoài biển này. Cảm ơn Đất Mẹ Nga Sơn lần cuối cùng lại cho con vùi xác vào trong ḷng Mẹ… Cảm ơn!

        Thầy đi. Nhích chân từng bước. Từng bước của Con Người.

        - Đả đảo thằng Vỹ địa chủ bóc nột, cường hào áp bức, cướp thóc núa, nhai xương uống máu bà con lông dân!

        - Đả đảo! Đả đảo!

        - Đă đảo thằng Vỹ, tên Việt gian bán lước, hại ḷi, con chó săn đắc nực của đế quốc phong kiến!

        - Đả đảo! Đả đảo!

        Y tá Toành bước vội lên trước, đầu ngoái sang trái rồi quay sang phải, tay vung lên hô la. Hắn ta hét đến vỡ họng, giọng khản đặc. Cái giọng thuốc lào Thái B́nh (hay Nam Định?) của Toành dù có sang tới Bên Ấy thầy cũng không quên.

        Trời rét. Rét đến nỗi hai bàn chân nứt nẻ, ống chân khô cứng co rút, lại thêm hai tay bị trói trật cánh khuỷu ra sau lưng, mấy lần dúi dụi ngă xuống mặt đất. Vậy mà, Lệ Uyên ơi, thầy cảm nhận cái giá rét của Đất Mẹ Nga Sơn một cách dễ chịu, gần như sung sướng. Cảm tạ mùa đông Xứ Bắc! Không có cái lạnh của Đất Mẹ làm sao con được hưởng hơi ấm ngọn lửa thiêng của hạnh phúc sum vầy ḍng họ, tổ tiên, gia đ́nh… nhất là vào những ngày giáp Tết, chuẩn bị đón xuân như hôm nay: 27 tháng Chạp - Ất Mùi - 1955!

        Ôi! Cái thời đại loạn lạc, đảo điên, băng hoại, vô đạo, vô luân!

        Con người muốn tồn tại, muốn sống, dẫu đă giả ngu, hoá hèn, trở thành con vật rồi vẫn cứ bị giết chết! Phải làm ma, làm quỷ kia th́ không chỉ sống thôi đâu, mà c̣n được hiển vinh cao sang nữa! Mai Duy Vỹ ơi! Anh đă… ăn hết Quả Lừa chưa?

        Gió thổi lao xao chen sóng biển ŕ rào… Âm thanh hoà trộn mà rành rọt đáng yêu sao từ xa khơi vào, lượn ṿng dăy núi Tam Lênh, qua những rặng vẹt, đồng cói mênh mông u buồn; lại hoà điệu cùng lời ca, tiếng vọng của ai xưa… lênh đênh qua cửa Thần Phù, khéo tu th́ nổi, vụng tu th́ ch́m… vừa đến bên tai thầy u u ư ư… một hồi dài. Làn sóng âm thanh đó tự nhiên lại tách bạch, rơ rệt, rành rọt:

        “Ngu! Ngu! C̣n ngu! C̣n ngu lâu! Chưa hết đâu!”

        Rồi loé chói lên trong đầu nghe như tiếng sét đánh:

        “Ai bảo khôn cũng chết, dại cũng chết, biết… th́ tưởng rằng khỏi chết hay sao? X́! Thôi đi! Cái điều cũ kỹ mấy ngàn năm nghe đi nghe lại, cứ tưởng là mới mẻ hay ho lắm! Biết rồi cũng chết! Chỉ có chết rồi mới hết… Hết mà vẫn …c̣n.”

        Vâng! Con biết con ngu, con ngu mà! Con có nói ǵ nữa đâu!

        Con ngu vậy là c̣n ít, Vỹ ơi, bởi con ngây thơ và thật thà. Thánh thần, vĩ nhân kia cái bọn ranh ma độc ác đó mới thật là ngu, ngu hết chỗ nói…

        Và Cái Chết! Cái Chết đă hiện ra trước mắt con ḱa!

        Cái Chết…

 

        Vẫn là cái băi tha ma ấy… Ngày xưa, có lần thầy theo anh Nuôi, hai anh em cùng cỡi trâu ra đây cho trâu ăn cỏ, ngồi thả diều, đánh khăng…

Ngày ấy, cỏ mọc xanh lút mồm trâu ḅ, bây giờ hoang sơ cằn cỗi. Nơi đây, bây giờ là chỗ tập trung người để mít tinh, biểu t́nh của làng xă. Bước chân người giẫm đạp, tiếng người vỗ tay, thét loa, ḥ la… từ ngày Khởi nghĩa tới nay, làm cho cỏ cũng sợ hăi mọc ít đi, không lớn nổi, trâu ḅ cũng ít tới… Một phần rẻo đất bên kia nay đă lô nhô hiu hắt những nấm mồ.

        Vẫn là cái khán đài dựng lên trên mô đất cao gồm mấy bộ bàn dài bằng gỗ kê sát nhau. Ghế ngồi là mấy cây tre giằng, cây luồng ghép, đặt buộc lên những cọc gỗ…

        Cũng như hai lần đấu trước, ngước nh́n lên thầy đă thấy những khuôn mặt cũ, ông Đội trưởng Đội Cải cách Ruộng đất ngồi trên đó, c̣n một bà Đội nữa đang đứng lẫn trong đám quần chúng, Quân Chủ lực Nông dân. Tám chín “cốt cán” Đội đă “xâu chuỗi bắt rễ” tách ra đứng một chỗ phía dưới khán đài, mấy người dễ dàng nhận ra: vợ chồng C̣ Toe, Hĩm Xoa, thím Đông, y tá Toành… C̣n mấy người nữa trông quen quen nhưng không nhớ tên, h́nh như Đội mới xâu chỗi bắt rễ thêm?…    Không thấy mặt chú Đông!

        Y tá Toành sau một lúc lăng xăng đi lui đi tới dưới khán đài, cũng đă thấy leo lên ngồi trên hàng ghế lănh đạo, Chủ tịch đoàn…

        Trên đầu những người này là ba bức ảnh treo khung gỗ: chân dung Bác Hồ, Bác Mao và đồng chí Malencốp. Ngọn cờ đỏ sao vàng buông rũ, khẽ dật dờ trong gió. Hai bên, hai băng khẩu hiệu bằng cót, quét vôi trắng, nền chữ đen đỏ: Đảng Lao động Việt Nam muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Toàn dân đoàn kết, quyết tâm đấu gục tên địa chủ phản động bán nước Mai Duy Vỹ!… Vẫn là mấy câu khẩu hiệu của hai lần đấu trước, đem ra treo dựng lại, nhưng hôm nay có một cái bảng cót trông không lớn lắm, chữ viết nguệch ngoạc, lại được cắm ngay dưới chân “khán đài” trước mặt Quần chúng Nông dân Chủ lực: “Lợ máu phải đền lợ máu!”

        Thầy chưa kịp nghĩ ǵ về mấy chữ máu này th́ bàn chân đă dừng lại trước cái hố h́nh chữ nhật đào sâu khoảng hai gang tay…

        Hai lần đấu trước thầy đă phải quỳ trong cái hố này, cúi đầu xuống, cấm không được ngẩng mặt lên, để cho các đồng chí cốt cán bần cố nông được Đội xâu chuỗi bắt rễ đứng ngay trên miệng hố gào thét, xỉa xói, tố hết nỗi khổ đau của họ, tội ác trời không dung đất không tha của thầy… Họ đứng trên cao, trước miệng hố mới nổi bật lên được uy thế bần cố, xưa là nô lệ nay là Ông Bà Chủ; c̣n ḿnh quỳ ở dưới hố bây giờ không được là cái con chó, con sâu bọ…

        “Vỹ ơi! Anh đang nh́n cái ǵ đấy?”

        Lạ thật. Có tiếng ai đang thủ thỉ bên tai ḿnh? Vẫn là cái hố hôm trước, có ǵ lạ đâu. Lại nghe tiếng ai kêu đến lạc cả giọng:

        “Nh́n về bên trái! Mắt với mũi! Phía tả! Cánh tả!”

        Thầy chợt nhận ra cây cột người ta mới đào đất chôn từ sáng nay. Một đoạn luồng ngâm dài đă cắm sâu dưới đất để họ trói đứng ḿnh vào cột rồi vẫn c̣n dôi ra một khúc, nhô lên trên đầu chừng 20 phân.

        “Lùi lại sau lưng dăm bước chân thôi, cái huyệt người ta đào sẵn, đất cát ùn chất lên cả đống ḱa! Anh không thấy à? Lúc nào anh cũng thật thà, ngây thơ đến dại dột! Cái huyệt ấy, ngôi nhà Vĩnh cữu, Cách mạng ruộng đất chia phần cho anh… Đă thấy chưa?”

        Thầy đang định ngoái cổ lại nh́n th́ bóng h́nh ai kia trông quen quá đă hiện ra ngay trước mặt, một nụ cười nhân hậu buồn buồn…

        “Đồng chí Mai Duy Vỹ! Anh Vỹ… Tôi, Trần Vĩnh Quyền, chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Hành chính xă Nga Phú… bạn học cũ, bệnh nhân của anh đây. Tôi đi trước anh… Họ vừa mới tử h́nh tôi ngay dưới chân núi An Tiêm. Sáu viên đạn súng trường vào người. Một viên đạn súng lục vào thái dương bên trái. Một đầu đạn c̣n mắc ở trong ngực, chếch lên phía bả vai trái… Chào Vĩnh biệt!”

        “Vĩnh biệt!” Thầy vừa định kêu lên th́ bác Quyền, Trần Vĩnh Quyền chứ không thể là ai khác lại hiện ra…

        “Anh Vỹ! Xin báo cho bạn của tôi biết một tin mới. Có thể đây là thông điệp của Yavê Thiên Chúa? Trên đường tôi trở về Nước Chúa th́ ngược đường Bên Ấy có một người chạy bộ từ thị xă Thanh Hoá về tới Nga Sơn mang theo mệnh lệnh của Đoàn Cải cách Ruộng Đất, coi như Bộ Tổng Chỉ huy hoặc Toà án Tối cao, tạm hiểu như thế nhé… Cái lệnh truyền mồm ấy là “Huỷ bỏ bản án tử h́nh có chữ kư của bà Đội Lê Thị Choét! Tha chết cho Trần Vĩnh Quyền!”

        Cảm ơn người anh em đồng chí tôi không được biết tên đă lập một kỷ lục chạy bộ ma-ra-tông mới cho nước nhà trên đoạn đường dài 40 ki-lô-mét.. khi bàn chân đất không dày dép, toạc da, toé máu vừa tới chân núi An Tiêm, truyền được khẩu lệnh mồm th́ anh này đă gục xuống bất tỉnh!

        “Huỷ bỏ án tử h́nh có chữ kư của bà Đội Lê Thị Choét! Tha chết cho Trần Vĩnh Quyền!”

        Trần Vĩnh Quyền đây! Tôi đă nghe rồi! Lạy tạ Đất Mẹ Nga Sơn! Vĩnh biệt bà con Nga An! Tôi đang trên đường về Nước Chúa mang theo 40 tuổi đời, bốn ngàn năm tuổi nước… Ḿnh đi trước nhé, Mai Duy Vỹ ơi! Vĩnh biệt!”

        “Vĩnh biệt!” Môi thầy mấp máy, lặp lại. Thầy chỉ muốn kêu to lên… nhưng bàn tay ai từ phía sau đă chụp lấy vai phải, lôi lại, ấn xuống.

        - Vỹ! Đứng lại!

        Thầy dừng lại.

        - Quỳ xuống!

        Chưa kịp quỳ xuống, hai người hai bên đă kéo lôi, đẩy thầy xuống hố cạn trước mặt. Sợi dây thừng trói cột hai tay làm thầy loạng choạng ngă chúi. Đầu đập vào cạnh hố, môi răng dính đầy đất cát, mông đít chổng lên… Họ phải tḥ tay xuống vực dậy, để thằng Vỹ có thể co duỗi quỳ dưới hố.

        Trận mưa đêm qua làm lớp đất mùn bên trên c̣n ướt dính nhoe nhoét. Một con nhái bén nhảy lên đậu vào vành tai thầy, vừa rớt xuống dưới bụng lại ḅ lên đầu gối… Ḱa, nó nh́n thầy! Ôi! Con vật đáng yêu! Chẳng cứ ǵ mày mới có vẻ đẹp tự nhiên, hiền hoà, mà rồi đây, cả đến ḍi bọ, mối, đục khoét thân thể ta… cũng chẳng có ǵ đáng gọi là xấu! Chỉ có con người! Con người! Giống loài hung dữ độc ác nhất trên Trái Đất, thứ khổng trùng dịch bệnh khủng khiếp mà Louis Pasteur, Robert Koch, Alexandre Yersin cũng không ngờ tới, h́nh dung nổi!

        Tiếng loa ọ ẹ cất lên.

        Ông Đội nói tiếng Nghệ An thông báo cho bà con nông dân buổi đấu tố lần thứ 3, lần cuối cùng hôm nay bắt đầu. Để đảm bảo thắng lợi to lớn của cuộc Cách mạng long trời lở đất, Ông Đội đề nghị tất cả mọi người có mặt hôm nay, Quân Chủ lực Cách mạng phải ra sức phát huy cho kỳ hết ḷng căm thù giai cấp, tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất để đấu gục tên địa chủ ngoan cố nham hiểm, thằng Việt gian phản động, bán nước Mai Duy Vỹ!

        “Thành tích cách mạng hôm nay…” - ông Đội la to - “chúng ta sẽ dâng lên Bác, Trung ương Đảng và Chính phủ, làm tấm gương sáng cho cuộc đấu tố điển h́nh không chỉ toàn huyện Nga Sơn mà toàn tỉnh Thanh Hoá chúng ta!”

        Tiếng trống đánh điểm nhịp cho tiếng hoan hô nổi lên nghe như tiếng súng. Trong rừng cánh tay vung lên có chừng dăm bảy khẩu súng trường, mấy chục cây gậy, c̣n lại là thuổng, cuốc, mă tấu, dao… Cũng như hai lần trước, thầy dễ dàng nhận thấy có những cánh tay giơ lên nửa chừng cùng những tiếng hô rụt rè, phải phép, những ánh mắt sợ sệt… Ai đó? Ai mà không sợ ông Đội hơn sợ Trời, sợ người… sợ cả chính ḿnh?

        - Vỹ!

        Thầy ngước đầu nh́n, ngạc nhiên hơn là… sợ hăi. Chú Đông, Mai Duy Đông nhà ta đang đứng trước mặt, giơ ngón tay trỏ xỉa vào mặt thầy.

        - Cúi đầu xuống! Mi có biết tao là ai không? Thầy cúi đầu, nói nhỏ:

        - Dạ, tôi không biết.

        - Láo! Biết chứ răng lại không biết! Thằng này…

        - Dạ. V́ tôi phải cúi đầu xuống, có được ngẩng đầu lên đâu mà bảo tôi nh́n ra ông là ai?

        Thầy ngẩng đầu lên nh́n thẳng vào mặt chú Đông.

        Có tiếng ồn ào ở phía dưới. Trong đám đông h́nh như có tiếng ai cười. Vài tiếng la, hô “đả đảo”.

        - Phải bắt thằng Vỹ ló xưng nà con, thưa với bà con lông dân nà ông bà lông dân… không được phép gọi ḿnh nà tôi!

        Y tá Toành đứng ra để nhắc nhở Lê Trạch Đông, c̣n là để lấy oai.

        Được tiếp sức, Đông chồm lên hét to:

        - Nói đi! Tao là ai, mi có biết không?

        - Dạ, thưa ông - thầy điềm đạm từ tốn - ông là Mai Duy Đông, em của tôi…

        - Láo! Tao không có anh em ǵ với mi! Tao là… là... Lê Trạch Đông, là đứa ở của nhà mi. Cha mẹ mi, hai đứa bóc lột tao, đè nén áp bức tao suốt ba mươi năm, bắt tao ăn đói nhịn khát, cực khổ c̣n hơn con chó… để c̣n hầu hạ vợ chồng mi…

        - Dạ thưa ông Ma… à quên (xuưt nữa th́ thầy gọi “Mao” cũng bởi ḍng họ nhà ta là Mai, tự nhiên ḿnh lú lẫn)… ông Trạch Đông, ông không muốn nhận ḿnh là con cái nhà họ Mai nữa, cái đó là quyền của ông. C̣n đối với tôi th́ trước sau ông vẫn là Mai Duy Đông, cha mẹ tôi nuôi nấng ông từ lúc ông mới sinh ra, t́m thấy ông nằm trong cái tă váy rách ở bụi xương rồng trước cổng nhà vào một sáng mùa đông… Tôi không muốn nhắc lại làm ǵ bởi v́ ở Nga Sơn này nhiều người c̣n nhớ và… chắc ông cũng biết!

        - Mi nói láo! Mả bố mả mẹ mi, tao nói cho mi biết, tao có cha, có mẹ hẳn hoi. Tao con nhà cố nông, v́ nghèo khổ quá, cha mẹ tao bắt tao đi ở cho nhà mi để gán nợ… ba đời! Cái ḍng họ Mai bẩn thỉu chó má của mi tao thèm vào! Tao là con của nông dân, sinh ra trong thành phần bần cố nông nghèo khổ. Đội Cải cách đă cứu sống tao. Đảng cho tao làm người. Mi hiểu chưa? Vỹ!

        - Dạ, thưa ông Đông, tôi hiểu…

        - Đă nói rồi! Không được xưng với tao (chú Đông vỗ ngực) là tôi, mi phải xưng mi là con chó, con lợn…

        - Dạ, con chó con lợn này xin…

        Quả thật, thầy cũng thấy lúng túng cứ phải xưng hô theo kiểu con chó con lợn này… May mà con chó nó chỉ biết sủa, con lợn nó chỉ biết ụt ịt chứ không th́… Ôi, khốn khổ cho cái kiếp con người ta!

        Thầy im lặng. Chú Đông dừng lại, thở hổn hển. Đột nhiên, chú hét rất to như có ai bày cách cho phải làm như thế.

        - Vỹ! Mi có biết không? Cách đây mấy năm rồi… vào cái Tết năm… năm… (chú chắc lưỡi, ngọng nghịu) nhà mi tụ tập toàn bọn Quốc Dân Đảng… Mi giơ tay xin thề trung thành với chúng nó đến hơi thở cúi c̣ng, thề diệt hết… kẻ thù Cách mạng và bán nước cho Tây, rồi… th́… là…

        Thầy ngạc nhiên, hoảng sợ. Hai lần đấu trước cái chuyện “Quốc Dân Đảng” này không thấy có? Chắc là Đội trưởng hay Toành đă bày tṛ cho Đông? Cái đầu chú ấy th́ biết ǵ tới chuyện chính trị, Việt Quốc, Việt Cách… Đến nước này th́ Mai Duy Vỹ có một cái đầu chứ có hai cái đầu người ta cũng chặt cho bằng được!

        Thừa lúc chú Đông ngẩn người để nhớ ra những điều đă học thuộc ḷng mấy hôm nay, bây giờ lú lẫn quên mất, thầy đột nhiên dứng dậy trong hố. Như có bàn tay vô h́nh nào lôi thầy dậy, vươn ḿnh đứng thẳng; thầy định giơ cánh tay phải về phía lá cờ đỏ sao vàng và chân dung Bác Hồ ở trước mặt, trên đầu, nhưng khốn nỗi hai tay bị trói chặt, toàn thân run rẩy loạng choạng…

- Thưa bà con nông dân! Thưa các đồng chí! Tôi, Mai Duy Vỹ, đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, tiền thân là Đảng Cộng sản Đông Dương… Ông Lê Trạch Đông đă dựng chuyện, bịa đặt, xuyên tạc… Tôi là một người Cộng sản. Đảng Cộng sản kết nạp tôi ở ngoài Mặt trận năm 1948 chứ không phải tại nhà tôi. Các đồng chí của tôi, một số là thầy thuốc, một số người ở trên Tỉnh uỷ, Uỷ ban có lúc đến thăm tôi, gặp gỡ tại nhà tôi. Chuyện ấy là có thật nhưng họ là những đảng viên Cộng sản chứ không phải Quốc Dân đảng. Quốc Dân đảng chúng nó theo Tưởng Giới Thạch, Nguyễn Hải Thần về bên Tàu từ lâu. Mà bên Tàu bây giờ có thằng nào là Quốc Dân đảng th́ Bác Mao và Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đă bắt nhốt hoặc làm thịt hết rồi!

        Như một đứa con bị đ̣n oan, cậu học tṛ bị xử phạt vô lư, thầy ngước nh́n ảnh Bác Hồ và ngọn cờ đỏ sao vàng, hai mắt trào lệ… Thầy uất ức, dằn từng tiếng, rơ từng lời:

        “Bác Hồ là lănh tụ tối cao của toàn dân Việt Nam, là người thầy tôn kính nhất của tôi. Tôi làm theo lời dạy của Bác, đi theo con đường của Đảng. Tôi nguyện trung thành với Đảng, hy sinh cho Cách mạng đến giọt máu cuối cùng. Có… Có…! Có lần tôi đă nói như vậy…

        Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!

        Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!”

        Thầy ngẩng cao đầu, lấy hết hơi sức la to. Rồi ứa trào nước mắt, nghẹn nấc.

        Y tá Toành đang ngồi trên khán đài đứng dậy, giơ ngón tay xỉa xuống dưới đấu trường.

        - Thằng Vỹ ló lói náo đấy bà con ạ. Ló nà tên Quốc Dân đảng chính cống nhưng nại đội nốt chui vào, trá h́nh nàm đảng viên Đảng Nao động để phá hoại Đảng ta! Cộng sản đâu đến phần ló! Ló nà tên Việt gian phản động bán lước! Các đồng chí! Bịt mồm thằng Vỹ nại! Không cho ló lói lữa! Thằng Vỹ phản bội nại dân tộc ḷi giống Việt Lam! Ló phải chết! Đả đảo thằng Vỹ!

        Vài tiếng hô “đả đảo” rời rạc tiếp theo.

        Cả đấu trường lặng đi. Ngay cả ông Đội trưởng đang méo mồm trợn mắt rít điếu thuốc lào cũng dừng lại bối rối.

        - Bắt ló câm mồm ngay! Không cho ló lói lữa!

        Toành rít lên.

        Thầy đứng thẳng như cây cột chôn trước mặt. Cây cột như cũng sửng sốt nh́n thầy, ngạc nhiên sao một con người lại có thể đứng yên được trước sự xúc phạm, vu oan giá họa đến thế.

        Ông Đội quát tháo ra lệnh cho du kích, dân quân bắt thầy phải quỳ xuống.

        Tiếp theo, đến lượt Hĩm Xoa, vợ chồng C̣ Toe bước lên đấu tố.

        Vẫn những chuyện cũ lặp lại hai lần đấu trước: cướp ruộng, tiêm thuốc độc cho vợ Xoa chết, nhét lưỡi cưa vào ruột thằng cu con C̣ Toe. Lưỡi cưa đó rành rành là của y tá Toành mớm cho C̣ Toe. Khi nói ra chi tiết này, C̣ Toe hơi lúng túng quay sang nh́n Toành lúc đó đă từ khán đài xuống chầu chực sẵn bên…

        Một điều lạ, có thể người ta không tin được, thầy không có ghét bỏ căm thù ǵ những người nghèo khổ tăm tối đó. Họ là người làng nước, bà con xóm giềng thân thuộc của ḿnh bao đời nay bây giờ trở thành nạn nhân, con tốt trên bàn cờ đen tối và độc ác của Đội Cải cách. Giả sử, nếu Trời thương Đội cho thầy thoát khỏi án tử h́nh, Mai Duy Vỹ lại sẵn sàng cầm túi thuốc nửa đêm lên đường, khi họ lâm bệnh đến nhà ḿnh cầu cứu.

        Ôi! Chữ Tâm của Mai Duy Vỹ, Ḷng Nhân của ḍng họ Mai xứ Nga Sơn - Thanh Hoá!

        Dẫu rằng không theo Phật Giáo và Công Giáo, đôi lúc thầy vẫn nghĩ đă là con người th́ không ai tránh khỏi tội lỗi. Đó là lẽ tự nhiên… Ḿnh sinh ra trong gia đ́nh sung sướng ắt phải mang nợ với những kẻ tật nguyền, nghèo khổ. Và, đi theo Đảng, làm đầy tớ cho dân, san bằng cái hố giàu nghèo để khắp thế giới này chẳng c̣n người bị đói khổ áp bức, ai ai cũng b́nh đẳng sung sướng… đó chính là mơ ước của thầy…

Trong Chỉnh huấn khi viết tự kiểm điểm, thầy cũng đă thành khẩn bộc lộ, kê khai những sai lầm tội lỗi của ḿnh đối với bà con nông dân nghèo khổ và thấy ḿnh trở nên trong sạch khoẻ khoắn như một con bệnh được chữa lành cứu sống.

        Nghe bạn kể, ông Karl Marx nghèo túng đến nỗi không c̣n đồng nào trong túi để trả tiền thuê nhà trọ, cuối tháng phải trèo tường chạy trốn chủ nhà; Bác Hồ giản dị tiết kiệm chỉ mặc bộ quần áo nâu, đi dép cao su, quanh năm ăn cơm muối khoai lang cà pháo… thầy rưng rưng nước mắt.

        Thầy đă kể lại những mẩu chuyện này cho cả nhà nghe để răn đe, giáo dục mọi người.

        Con ạ, thầy chẳng ưa ǵ lối sống tu hành của các nhà sư và cha cố; nhưng sao ḿnh lại mang một đức tin ngây thơ rằng h́nh như chỉ sống trong nghèo khổ con người ta mới có đạo đức và, mọi tội ác trên đời này đều bắt nguồn từ cuộc sống giàu sang, thừa mứa?

        Và người Cộng sản xuất hiện!

        Người Cộng sản sinh ra trên Trái Đất này là để hoàn thiện ước mơ cao đẹp nhất của con người!

        Đến nước này rồi mà Mai Duy Vỹ cẫn c̣n nghĩ ngợi lan man như thế đấy, thử hỏi có dở hơi không?

        Và ḱa, Lệ Uyên ơi, Thần Chết đă đến lạnh lùng đứng bên khán đài cách một quăng trước mặt thầy. Bên tai thầy có ai nói thầm th́:

        “Vỹ ơi! Tội ác trên thế gian này lũ lụt kéo đến từ hai phía, phía người giàu và cả phía người nghèo. Đừng lầm tưởng rằng chỉ có phía người giàu thôi đâu, và h́nh như… con ơi, điều trái với mong muốn của tất cả chúng ta là, cái phía người nghèo ấy xem ra lại nhiều và… nhiều hơn! Ôi! Tai họa!

        - Vỹ!

        Tiếng người hét trước mặt gần đến nỗi thầy váng cả đầu óc, chưa nhận ra được ai kia, Thần Chết hay y tá Toành, vừa đè dí ngón tray trỏ vào trán làm ḿnh xuưt ngă ngửa.

        - Mi có biết tao nà ai không?

        - Dạ, biết…

        - Lói to nên cho bà con lông dân, quần chúng nao động Quân chủ nực Cách mạng người ta nghe! Hử! Mi có biết tao nà ai không?

        - Dạ, thưa… Ông là ông Toành, y tá…

        - Ái chà! Mi tưởng mi nà y sĩ nà ghê gớm nắm hả? - Toành dừng lại cười gằn - mi nà cái cục cứt, con chó, con nợn mà thằng Pháp ló lặn ra… Có phải bọn Tây, mấy thằng đốc tờ Pháp, chúng ló dạy mày cưa chân, chặt tay bộ đội, mổ bụng người ra nhét nưỡi cưa vào ruột gan họ rồi khâu chỉ nại rồi th́… mi c̣n pha chế tẩm chất độc vào những viên thuốc của Tây rồi đưa cho anh em chiến sĩ, bà con lông dân uống để người ta năn đùng ra chết. Có đúng như thế không?

        Thầy im lặng. Cố nhớ lại và hơi ngạc nhiên. Thật ra ḿnh đâu có biết ǵ nhiều về cái anh Toành này. C̣ Toe, Hĩm Xoa… bà con trong làng th́ ḿnh biết, bởi họ cùng quê, thậm chí cùng họ… C̣n Toành? Họ tên hắn là ǵ, quê quán ở đâu? H́nh như có ai nói hắn từ Thái B́nh vào Nga Sơn năm đói Ất Dậu 45; lại có người nói hắn chạy loạn từ Ư Yên Nam Định vào đây năm 1947?…

        - Vỹ! Mi giết tất cả anh em bộ đội, bà con lông dân, trẻ già nớn bé nà… nà… hai trăm mạng người có đúng không? Hử!

        Thầy ngước mắt nh́n Toành, ngạc nhiên về sự bịa đặt tưởng tượng của con người - động vật tàn ác nguy hiểm nhất trên Trái Đất. Con số 200 mà Toành vừa công bố đă được Đội Cải cách thống kê ghi vào biên bản lần đấu thứ hai. Hôm đó, chẳng hiểu v́ đầu óc đă điên loạn hay bởi cái bản chất nghịch ngợm, hài hước từ thuở c̣n là học tṛ, thầy đă xin phép Đội được sửa con số 200 thành 1955… Vậy mà sao hôm nay hắn vẫn c̣n nhắc lại?

        Thầy nói nhanh để hắn không kịp ngăn lại:

        - Thưa ông Toành. Con đă nói lần trước rồi sao ông vẫn không nhớ? Không phải chỉ 200 đâu! Con đă giết tất cả là một ngàn chín trăm năm mươi lăm mạng người!

        Toành ngớ người. H́nh như hắn chưa hiểu ra.

        - Thưa ông Toành. Năm nay là năm 1955. Tính từ khi con cầm xê ranh, dao mổ cho đến nay, con đă giết tất tần tật là một ngàn chín trăm năm mươi lăm mạng người chứ c̣n sao nữa? Chỉ hai trăm thôi à? Ít quá! Một lần nữa… Con xin nhắc lại!

        Đám đông Quân Chủ lực Cách mạng ồn ào, sôi động. Có tiếng ai cười khẽ.

        Toành chợt hiểu, cười găm lại trong mồm:

        - Mi nếu náo hả Vỹ? Đến chết rồi mà vẫn c̣n dám đùa cợt, chế nhạo các ông bà lông dân chúng tao.

        Rồi vụt đứng thẳng người, tay vung nắm đấm lên hô:

        - Đả đảo thằng Vỹ náo xược, ngoan cố, coi thường quần chúng, Quân Chủ nực Cách mạng, chế nhạo bà con bần cố lông dân!

        - Đả đảo!

        - Đả đảo!

        Biển người đả đảo ào ào cuộn dâng lên. Toành càng hét to hơn:

        - Kiên quyết đấu gục Mai Duy Vỹ, thằng địa chủ bóc nột gian ác, thằng thầy thuốc giết người cưa chân, chặt tay bộ đội, uống máu lông dân, bỏ thuốc độc cho bệnh nhân uống…

        - Đả đảo! Đả đảo!

        - Có khổ nói khổ nông dân vùng lên!

        - Vùng lên! Vùng lên!

        Mắt Toành đỏ nọc như vừa bật máu. Hắn dừng lại lấy sức, dồn hơi để hét:

        - Vỹ!

        - Dạ.

        - Mi đă cắt dây điện để cho quân ta không nhận được nệnh của Bộ Tư nệnh mặt trận ở trên đánh Móc về! Có phải không?

        - Dạ.

        - Vỹ! Chính mi ở Nho Quan đă bấm đèn bim nên trời để gọi máy bay Pháp tới bỏ bom. Đúng không?

        - Dạ

        - Có đúng không? Dạ nghĩa nà nàm sao?

        - Dạ!

        - Vỹ! Có phải mi đă niên nạc với Nê Hữu Từ ở Phát Diệm không?

        - Dạ. Không. Thưa ông Toành. Con đâu phải người Công Giáo. Con theo đạo Cộng sản, làm sao quen biết được Giám mục Lê Hữu Từ?

        - Mi lói náo! Mi với hắn là hai thằng phản động cấu kết với nhau, niếm gót giày cho Pháp, chống phá Cách mạng!

        - Dạ. Kính thưa Đội! Kính thưa các ông bà Nông dân - Thầy nói chậm răi - Con không có quen biết ǵ với cha Lê Hữu Từ cả. Nhưng Bác Hồ, năm 1947, theo lời mấy ông trên Tỉnh nói cho con biết, Bác có vào thăm Thanh Hoá, lúc về Bác đă ghé qua Phát Diệm gặp Lê Hữu Từ khuyên bảo ông ấy nên đoàn kết Lương Giáo chống Pháp…

        Ông Đội trưởng đặt điếu cày xuống, đập bàn, đứng dậy, xỉa ngón tay trỏ xuống phía thầy, thét lên:

        - Vỹ! Mi toàn bịa đặt, nói láo! Bác Hồ sao lại đến gặp Lê Hữu Từ? Nó là thằng cha cố phản động bán nước buôn dân. Mi cả gan dựng chuyện cho Bác Hồ, định hạ uy tín lănh tụ tối cao của toàn dân phải không? A! Thằng này… ghê gớm thật. Tự lột trần rành rành chân tướng của một tên Việt gian bán nước… Đáng tội chê… ết!

        Toành chồm tới nhổ một băi nước bọt vào mặt thầy, xỉa xói theo:

        - Vỹ! Chính mi đă cứu sống thằng Tây Giắc, thằng Pháp cướp lước. Sau đó, một thời gian dài mi nàm gián điệp cho ló, cho tới Hiệp định Giơnevơ khi ló về lước. Thưa bà con Lông dân, Quân Chủ nực… các đồng chí ạ, thằng Vỹ với thằng Giắc, hai đứa suốt thời gian ở mặt trận cứ lói chuyện với nhau bằng tiếng Tây x́ nà x́ nồ… Ló lói ǵ, chỉ chúng ló mới hiểu được thôi. Nhưng anh em, đồng chí trong quân đội hồi ấy, rồi người ta cũng biết, biết hết… Chẳng hạn, thằng Giắc giơ tay nên quay ṿng nà ra cái ư máy bay Pháp ló nượn ṿng, c̣n thằng Vỹ th́… cũng giơ tay nên nhưng nại đâm thọc xuống rồi kêu đùng một cái, tức nà ra hiệu cho phi công Tây ló lém bom chứ c̣n ǵ lữa! Có phải thế không hở bà con, các đồng chí?

        Ông Đội trưởng hô to:

        - Đả đảo thằng Việt gian Mai Duy Vỹ liếm gót Tây, cấu kết với Pháp, âm mưu bán rẻ nước ta cho bọn thực dân đế quốc!

        - Đả đảo!

        - Đả đảo!

        - Thằng Vỹ đáng tội chết!

        - Phải tử h́nh Mai Duy Vỹ!

        - Tử h́nh! Tử h́nh!

        Mặt trời bỗng nhiên ló ra khỏi đám mây đen. Ánh nắng lấp loáng trên khán đài. Thầy nheo mắt cảm nhận đây là tia nắng cuối cùng của Trái Đất. Vầng mặt trời quang minh chính đại thênh thang đi ṿng trên đầu thế gian từ khi Mai Duy Vỹ mở mắt chào đời cho đến nay. Mặt trời đỏ lửa thần diệu ấy bây giờ không c̣n nguyên h́nh nữa, chỉ là một đám cháy… Đám cháy cũng sắp tắt. Quả nhiên đám mây đen khác đùn tới, che lấp. Bóng tối sa sầm. Một giọt mưa trên cao ấy rơi nghiêng xuống đúng vào giữa trán thầy.

        Ông Đội trưởng đọc to, dằn nặng từng tiếng Nghệ An những ḍng chữ trên tờ giấy trong ḷng hai bàn tay run run… Bản án tử h́nh Mai Duy Vỹ đă được Đoàn Cải cách - Cấp trên kư duyệt.

        “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Độc lập Tự do Hạnh phúc

        Thầy chỉ nghe được ngần ấy chữ. Cái đoạn kể tội, luận tội vu vơ, lảm nhảm cứ như lời trẻ con chơi bịt mắt bắt dê; và cả cái phán quyết giết người rùng rợn cũng như tṛ đùa, tuồng diễn trên sân khấu: Tên địa chủ phản động Mai Duy Vỹ phải chịu án tử h́nh!

        Thần Chết đă tới, đứng gần cây cột chôn trước mặt.

        Lời ai đây nghe rành rọt bên tai thầy:

        “Người ta bảo Cách mạng là ngày hội của quần chúng. Mai Duy Vỹ ơi, anh đă mải mê đi trong đám quần chúng. Và tới bây giờ, trên sân khấu của Ngày Hội anh cũng phải tham gia đóng nốt vở tuồng. Khốn nạn thân anh, vai diễn này lại đẫm máu và nước mắt!”

        Họ dựng thầy dậy, lôi ra khỏi cái hố cạn, đẩy kéo sang tới cây cột dựng đứng kia.

        Thoạt tiên, họ định cởi tháo dây trói trật cánh khuỷu ở sau lưng thầy nhưng y tá Toành không chịu. Theo ư Toành, cứ để như thế rồi trói luôn vào cây cột. C̣ Toe, rồi cả Hĩm Xoa không tán thành bởi lẽ, nếu để vướng hai tay trật sau lưng th́ làm sao mà trói được, đă vừa cấn cái… lại không chắc chắn. Phải tháo ra rồi cũng trói hai tay sau cây cột th́ tiện lợi hơn. Ba tên căi nhau. Ông Đội trưởng lại đứng ra phân xử.

        - Sau trước ǵ rồi cũng phải tháo dây thừng, cởi trói ra - Ông ta nói - Bắn xong rồi, c̣n phải cho nó xuống huyệt nằm để mà lấp đất chứ!

        Toành vẫn c̣n cay cú:

        - Để ló chết trong tư thế bị trói mà chôn nại không hơn à? Như thế mới đúng cách. Sang tới Bên Ấy ló có muốn ngửa tay đi ăn xin bà con lông dân cũng không được. Phải thế chứ!

        C̣ Toe, Hĩm Xoa lặng lẽ làm theo phán quyết của Đội. Thoáng chốc, họ đă cởi tháo hai tay thầy rồi trói ngoặt ra phía sau cây cột; một cuộn thừng quấn năm sáu ṿng từ ngang ngực xuống bụng. Một đoạn thừng buộc hai ống chân vào cột…

        Trói rất chắc, thở cũng đă khó, chứ chưa nói đến muốn cụ cựa…

        Ông Đội khẽ ra lệnh:

        - Bịt mắt nó lại. Miếng giẻ đâu rồi?

        - Dạ. Có… có đây…

        Toành nói sau lưng thầy. Vội bước lên, lôi trong túi áo ra một đoạn vải dài đă buộc nối, rộng bản chừng ba ngón tay chập lại, hắn làm một ṿng quanh đầu thầy rồi buộc thắt phía sau gáy. Đoạn vải đen đă cũ, khăm khắm mùi mồ hôi nước tiểu Toành đặt để chưa đúng cách, trước lỏng sau chặt, hơi tụt xuống sống mũi… Thằng hậu đậu! Chứng nào vẫn tật ấy. Y hệt như năm xưa buộc ga-rô, quấn bông băng cho anh em thương binh.

        - Đồng chí Đông đâu rồi?

        Ông Đội nói nghe khản cả tiếng.

        - Dạ thưa Đội, có… có tôi.

        - Từ năy giờ đi đâu, sao chưa đứng vào hàng ngũ?

        - Dạ… dạ…

        Thật lạ lùng. Lệ Uyên ơi! Nói ra hẳn không ai tin: thầy muốn gặp lại, thấy mặt chú Đông! Cả nhà ta không có ai được đến đây để… tiễn đưa thầy. Ḍng họ Mai vắng mặt, diệt vong hết rồi sao? Thôi th́, dù chú ấy có thay ḷng đổi dạ đi nữa vẫn c̣n là con nuôi của ông bà, vẫn là dấu vết, hơi hướng của ḍng họ Mai chúng ta! Sự ngu dốt kém cỏi của con người hoá ra đôi lúc cũng cần thiết: thầy vẫn thấy được mờ mờ qua băng giẻ buộc che hai con mắt. Ḱa! Chú Đông đang nh́n thầy, hố mắt hoảng loạn, tay run run giơ ra cầm lấy khẩu súng trường.

        Ông Đội điểm danh đủ 6 tên: Toành, C̣ Toe, Hĩm Xoan hai anh dân quân và Lê Trạch Đông. Sáu người đứng dàn thành hàng ngang.

        - Chú ư! Tất cả làm theo lệnh tôi!

        Ông Đội vừa nói dứt câu th́ ai kia từ đám đông xô đẩy, chen lấn người bước ra… Người đàn bà này đâu phải ai xa lạ, thím Đông, vợ Mai Duy Đông, tóc tai loà xoà, miệng chửi bới, hai tay vùng vẫy giằng lấy khẩu súng của chồng làm chú Đông loạng choạng để mũi súng quệt xuống đất.

        - Anh hèn nhát, anh sợ… anh không dám bắn nó hả? - Thím Đông hét lên - Đưa súng đây, tôi bắn cho! Thằng Vỹ phải đền nợ máu!

        Cả đấu trường nhốn nháo. Thần Chết cũng sững lại, đưa mắt nh́n về phía người đàn bà lạ lùng đó. Thím Đông nhà ta, không phải là ai khác, đă xô chồng ngă dúi dụi lăn quay trên đất, hùng hổ cầm khẩu súng trường đứng vào vị trí của chồng.

        Vĩnh biệt!

        Vĩnh biệt Nga Sơn quê hương ngàn đời! Vĩnh biệt ḍng họ Mai! Vĩnh biệt Thầy Mẹ kính yêu! Vĩnh biệt vợ hiền thương! Vĩnh biệt Thanh Tâm, Lệ Uyên, các con yêu quư… Mai Duy Vỹ đi đây!

        Trước mắt thầy lần lượt hiện ra từng khuôn mặt thân thương yêu dấu. Lệ Uyên ơi! Con gái yêu của thầy! Đừng nh́n thầy như thế! Đừng buồn! Đừng khóc! Đừng oán trách thầy để con côi cút giữa Trần gian!

        - Tất cả các đồng chí làm theo lệnh tôi! - tiếng ông Đội nhắc lại - Bồng súng lên!

        Sáu cây súng cùng giương lên nhằm về một phía - Mai Duy Vỹ!

 

 

CHƯƠNG 44

CHÔN SỐNG

 

        - Bắn!

        Năm viên đạn nổ cùng một lúc. Một viên đạn nổ tiếp theo. Viên đạn chính xác hơn cả của y tá Toành trúng vào ngực phải, xuyên qua phổi. Bốn viên kia vào bụng, cổ, tay, chân. Và viên sau cùng, có lẽ của thím Đông, bay sượt qua đầu thầy. Một tràng vỗ tay nghe rời rạc đứt quăng. Toành chống súng xuống đất, nhe răng cười. Nghĩ ngợi thế nào, hắn lại quay đầu lại đám đông quần chúng - Quân Chủ lực Cách mạng la lên:

        - Sao vỗ tay ít thế? Chỉ vỗ vậy thôi à? Ơi bà con ơi! Vỗ tay nên! Vỗ mạnh nên! Lào lào!…

        Im lặng.

        Ông Đội bước tới, nh́n hai con mắt thầy vẫn c̣n mở, toàn thân run giật, nói:

        - Thằng Vỹ c̣n sống hả?

        Họ xúm nhau lại, từng người cúi đầu xuống nh́n.

        - Dạ, c̣n sống…

        Y Tá Toành cúi đầu sát xuống nh́n vào mắt thầy, lùi lại nói với ông Đội:

- Xin đề nghị đồng chí… bắn thêm cho ló một phát lữa vào đầu, thế nà chắc ăn.

        Ông Đội ngần ngừ. Toành vẫn bám dai:

        - Theo đúng nuật quốc tế mà! Các lơi đều nàm thế…

        Ông Đội lầm bầm:

        - Sáu người bắn vào một cái xác không hồn mà rồi cũng không xong! Các đồng chí làm ăn như cứt! Bộ đội ngoài chiến trường mà như thế ni có mà thằng Pháp nó chịu giơ tay đầu hàng cho!

        Toành đế theo:

        - Thôi, các đồng chí ạ. Nần lày ta rút kinh nghiệm cho những nần sau…

        Ông Đội lừ lừ nh́n hắn, hự một tiếng:

        - Lần sau là thế quái nào? Đồng chí nói năng ǵ lạ. Lần nào nữa?

        Đám đông quần chúng, Quân Chủ lực Cách mạng đang nhốn nháo hoảng loạn. Cái đê người vỡ dưới kia ầm ào tiếng kêu la lẫn tiếng khóc… Những bàn tay bưng che… Những chiếc nón rách úp trùm mặt.

        Ông Đội bối rối nói:

        - Các đồng chí! Đằng nào nữa, sớm muộn trước sau ǵ thằng Vỹ cũng chết. Chỉ lát nữa thôi. Chi bằng lôi cổ nó xuống huyệt chôn quách đi cho rồi! Tôi ra lệnh: Chôn! Chôn ngay!

        Họ xúm nhau lại quanh cây cột, tháo gỡ dây thừng giằng buộc thi thể tội nhân. C̣ Toe càu nhàu rằng Hĩm Xoa buộc quá chặt bây giờ khó gỡ nút. Hĩm Xoa gọi thêm mấy dân quân nữa tới giúp việc. Họ dùng liềm giật, lấy dao cứa đứt. Thầy tụt xuống, tụt xuống… cho tới khi hai đoạn dây cuối cùng buộc hai ống chân đứt sổ th́ thầy đổ xuống, lăn ra đất…

        Bỗng nhiên, sự Sống từ Trời cao xuống, từ dưới Đất lên, hay từ ḍng giống họ Mai xưa mấy ngàn năm Hùng Vương dựng nước trở về làm thầy hồi tỉnh. Nhịp đập trở lại trái tim, hơi thở mở hai buồng phổi, óc năo phát sáng.

        Chẳng biết thần linh nào hiện ra sai khiến, bảo thầy chắp hai tay, run rẩy đưa lên trước ngực… Thầy nói:

        - Tôi lạy các ông… đừng chôn sống tôi… cho tôi sống… để tôi chữa bệnh cho dân…

        Ông Đội ngẩn người ra chốc lát, cau mày, h́nh như không hiểu ư nghĩa câu nói của thầy.

        Thầy lặp lại:

        - Cho tôi sống… tôi chữa bệnh cho dân…

        Rồi đuối hơi, lịm ngất đi. Máu từ đâu lại ứa ra, kéo màn che cả bầu trời trước mắt.

        Y tá Toành rít răng, giọng khàn đục nghe vẳng bên tai:

        - Chữa bệnh cái ǵ! Có mà mày nại giết hại bà con lông dân ấy chứ. Lợ máu phải đền lợ máu! Thằng Vỹ, mày phải chết! Lào, lào… các đồng chí, mỗi người lắm một tay, một chân cùng tôi…

        Hắn cùng c̣ Toe, Hĩm Xoa, thím Đông - bốn tên nắm hai tay hai chân thầy lôi kéo đến huyệt chôn.

        Máu ộc ra từ người Mai Duy Vỹ, rớt chảy trên đất cát một vệt dài. Ném thầy xuống huyệt rồi, tay chân họ đều dính máu. C̣ Toe, thím Đông vừa đưa tay lau quệt vào ống quần vừa nhổ nước bọt.

        Cái huyệt vừa hẹp lại vừa ngắn. Vùng đất này cát pha, có cứng lắm đâu mà sáng nay họ đào qua loa chiếu lệ. Mai Duy Vỹ chỉ cao mét sáu dư vài phân thôi mà họ không để cho hắn được nằm duỗi thẳng tay chân trong huyệt. Lại phải kéo hai chân, nhô đầu gối lên, co hai ống sậy. Đă vậy, chiều sâu cũng chỉ bằng nửa cây gậy chống, chắc hồn ma Vỹ có thể đêm đêm giơ tay lên chỉ trỏ, tṛ chuyện với các v́ sao! Mà biết đâu đấy, chỉ một hai trận mưa xuống, đất trôi đi hết là xương thịt hắn lại ḷi ra cho quạ rỉa, chó tha…

        Nga Sơn ơi! Đất Mẹ mênh mang sâu dày cho cói mọc người sinh, sao nỡ để đứa con bất hạnh của ḿnh phải nằm xuống trong cái nhà mồ theo kiểu chuột chui dế đùn thế này! Luật nhân quả bù trừ bao trùm khắp thế gian. Ai bảo ông bà tổ tiên họ Mai xưa khai phá đất hoang rừng thiêng làm ǵ, ôm cho lắm vườn ruộng vào ḿnh, để vạ Cải cách Ruộng đất bây giờ lại cho con cháu, bắt Mai Duy Vỹ phải độc đắc trúng cái án tử h́nh này!

        Lệ Uyên ơi! Thảo nào ông nội con lúc hấp hối đă sấm truyền lại: sau khi tôi chết rồi, con cháu có chôn tôi th́ khỏi cần tới ḥm ván, nhưng nhớ đào huyệt thật sâu, chôn thật sâu; dẫu thân xác có làm mồi cho giun dế cũng được, miễn sao đừng để người đời đụng tới, moi t́m ra!…

        “Anh Vỹ!”

        Có tiếng ai vừa gọi thầy?

        “Đồng chí Mai Duy Vỹ!”

        “Có tôi! Ai gọi tôi đó?”

        “Cao Hữu Hiến đây…”

        “Cao Hữu Hiến, Ty trưởng Ty Lao động Thanh Hoá phải không?”

        “Vâng. Chính tôi!”

        Giữa trời mây u ám, tia chớp loé hiện ra một khuôn mặt thân thương quen thuộc. Kém thầy một tuổi, con người mới 35 xuân nở một nụ cười tươi, hàm răng sáng tuyệt đẹp… Cái đẹp của một thời hăng say bốc lửa, dâng trọn cuộc đời cho lư tưởng Cộng sản mà Paul Vaillant Couturier gọi là “Mùa xuân của nhân loại”.

        “Vĩnh biệt Mai Duy Vỹ! Tôi đi trước anh nhé!”

        “Ơ ḱa! Sao vội vàng thế? Lại không nói với nhau được một lời hay sao? Hiến ơi!”

        “Biết nói ǵ bây giờ? Vỹ ơi! Ở đời chẳng có cái ǵ bất biến vĩnh cữu, kể cả chủ nghĩa Cộng sản. Tôi vào Đảng Cộng sản từ thời bí mật, trước anh 5 năm. Vậy mà bây giờ, cũng như anh, bọn côn đồ, lưu manh, cơ hội chúng nó dám gán cho ḿnh cái nhăn hiệu là Quốc Dân Đảng. Đồng chí Vỹ à, thời nay chúng nó cũng chẳng biết Mác Ăngghen là ai đâu; toàn nói mép cả thôi, và dĩ nhiên cái đầu Nguyễn Thái Học cùng với 11 cái đầu đồng chí của ông ấy rơi xuống trong khởi nghĩa Yên bái, thậm chí cả đầu của Nguyễn Thị Minh Khai trong khởi nghĩa Nam Kỳ chúng cũng chẳng quan tâm…

        Tôi không có được sự kiềm chế như anh. Chữ Nhẫn trong tôi yếu lắm. Sáng hôm qua, nhân lúc người gác ngục đi ra ngoài đánh rớt cái gương con trước cửa, tôi vội nhặt lấy. Thừa biết sớm muộn ǵ cũng chỉ vài hôm nữa chúng nó sẽ tới dẫn ḿnh đi cho “ăn kẹo đồng” theo lối nói đùa cợt mất dạy của tụi này, đồng chí Vỹ ạ, tôi quyết định tự tử! Trọn đời, tôi chỉ chấp nhận một toà án duy nhất - đó là Đảng Cộng sản của tôi.

V́ vậy, tôi đă đập vỡ cái gương tṛn vừa bằng ḷng bàn tay ra làm hai mảnh. Chọn cái mảnh có mũi nhọn sắc hơn, tôi rạch thẳng một đường từ cổ họng chạy xuống tới bụng dưới; rồi thọc tay vào trong sâu lôi rút hết tất cả ruột non ruột già ra… Máu chảy lai láng từ trong nhà tù, ngoằn ngoèo tới ngoài cửa, ḅ ra tới sân…

        Bọn chúng trông thấy, hốt hoảng chạy vào. Tôi giơ tay chỉ đống ruột bầy nhầy, ḷng tḥng trước bụng nói:

        “Xin nhờ các ông báo cáo lên trên… để cho Bác Hồ và Anh Trường Chinh biết ruột gan ḷng dạ của Cao Hữu Hiến, đảng viên Cộng sản trong trắng như thế này đây!”…

        Nói vừa hết câu, tôi tắt thở.

        Vợ con tôi ở xa. Các con c̣n nhỏ.

        Chỉ có hai cháu Duy và Sơn, con của hai ông anh ruột, may vừa tới kịp. Các cháu dùng một cái đọi lớn, loại bát múc canh, úp vào trước bụng, che lại để cho mớ gan ruột khỏi sổ ra ḷng tḥng; đoạn lấy dây chuối buộc chận ṿng từ bụng xuống dưới lưng, rồi đặt tôi lên vơng cáng đưa về nhà.

        Tôi quê ở Thừa Thiên - Huế. V́ tham gia Cách mạng nên xa nhà từ nhỏ, không được như anh nằm trong ḷng Đất Mẹ Nga Sơn - Thanh Hoá. Cũng như anh, tôi chết chôn không ván không ḥm, bó cuốn manh chiếu rách; chỉ hơn anh mỗi một điều là cái huyệt của tôi các cháu đào rất sâu, nằm ở dưới này duỗi thẳng chân tay rộng răi và thoải mái!

        Vĩnh biệt nhé, bạn thân yêu Mai Duy Vỹ! Tôi về trước anh đây! Hẹn gặp lại!”

        Tia chớp lại loé sáng. Con Rồng Đỏ hiện lên. Cao Hữu Hiến vụt biến.

 

        Ông Đội vai mang xà cột, đi lại quanh huyệt tỏ vẻ bực bội:

        - Có mỗi cái hố chôn cỏn con này mà đào cũng không xong! Từ sáng tới giờ, mấy cậu dân quân làm chi, ngồi tán phét hả? Mần ăn như cứt! Đồng chí Toành! Tôi đă phân công đồng chí…

        Toành lư sự, phân bua:

        - Báo cáo anh… có sao đâu ạ. Bà con lông dân ta chôn ló thế lày nà phúc cho ló nắm rồi. Chôn thằng Vỹ th́ cũng như chôn con chó, con nợn… Tôi có cách lày, giải quyết nà xong ngay!

        Vừa dứt câu hắn đă vớ lấy cái cuốc, đứng dạng háng trên huyệt, quay ngược lưỡi cuốc, trở cán giơ lên cao bặm môi méo mồm nện hai cái thật mạnh xuống hai đầu gối thầy.

        Rắc! Rắc!

        - Như thế lày đă được chưa, các đồng chí?

        Hắn quay lại nh́n mọi người mắt long lên, miệng cười cười. Sự sống trong người thầy như ḍng điện giật run, bật lên, co duỗi. Và hai con mắt lại tự nhiên mở ra trừng trừng nh́n những con quỷ, không phải đâu, những con người! Thanh Tâm, Lệ Uyên, ơi các con yêu thương, thầy vẫn c̣n sống mà.

        C̣ Toe cầm thuổng, Hĩm Xoa cầm mai, hai tên vọt lên đứng hai bên.

        - Vỹ! Cho mày về chầu tiên tổ họ Mai nhà mày!

        Toe vừa nói vừa nghiến răng giơ cao cây thuổng, giộng một nhát xuống đầu thầy. Xoa méo mồm trợn mắt giơ cao cán mai làm tiếp một nhát vào ngay mắt bên phải thầy.

        - Vỹ ơi! Cho mày về chơi Âm phủ để mày chữa bệnh cho thằng cha sinh ra mày, con mẹ đẻ ra mày, chữa cho cái lũ địa chủ bóc lột, bọn Việt gian bán nước…

        Thím Đông cũng cầm cuốc chen vào, cuốc lấy cuốc để lên đầu “Thằng Vỹ”.

        - Tiên sư cha thằng Vỹ! Mả mẹ thằng Vỹ! - Tay cuốc mồm la - Tiệt ṇi tiệt giống họ Mai nhà mi nhé.

        Xem ra thím Đông đă thoả măn bần cố, toại nguyện trăm phần trăm: vừa trút khỏi thân ḿnh của nợ thành phần địa chủ, lại được mang cái lư lịch cao sang bần cố, đứng vào hàng ngũ các đồng chí. Cũng như mấy người kia, trên tay thím nhầy nhụa những máu và óc của Mai Duy Vỹ…

        Lưỡi mai, lưỡi cuốc cứ va chạm nhau chan chát, rào rạo… Từng mảng óc hoà lẫn máu văng ra, phọt lên tung toé…

        Lê Trạch Đông lùi lại sau… Tuân lệnh ông Đội chú ấy cũng cầm xẻng xúc đất đổ xuống huyệt, làm theo những người kia.

        Chỉ trong thoáng chốc đất cát đă chồng chất lấp đầy xác Mai Duy Vỹ - nấm mồ của đứa con ḍng họ Mai ở xứ Nga Sơn - Thanh Hoá.

        Một ngọn Tam Lênh bé tí trong cơi người ngập tràn máu và nước mắt.

 

 

CHƯƠNG 45

CHA ĐI TRƯỚC, CON VỀ SAU…

BÂY GIỜ CON LẠI ĐI TRƯỚC…

 

        - Thầy ơi! Thầy ở đâu rồi?

        Lệ Uyên hoảng hốt kêu lên, hai tay quờ quạng…

        - Đây, đây… thầy của con đây. - Tiếng ông Vỹ nghe từ đâu xa xăm, vẫn tŕu mến dịu dàng - Thầy kể xong rồi đấy. Những điều con muốn biết mà gần nửa thế kỷ nay thời gian c̣n kéo màn che kín, phủ đầy cả một biển máu và nước mắt. Thôi nhé, thầy đi…

        - Một lần nữa thầy lại bỏ rơi đứa con côi cút tội nghiệp của thầy ư?

        Lệ Uyên bật khóc. Ông Vỹ cười không thành tiếng; nụ cười c̣n nguyên nỗi buồn đau… lại hiện ra trước mặt hai chị em.

        - Thầy chúc mừng các con đă được Siêu thoát …

        Thùy Dương cũng ngỡ ngàng bối rối:

        - Bác bỏ chúng con đi thật à? Bao giờ th́ bác mới được Siêu thoát?

        Ông Vỹ ngập ngừng, đắn đo:

        - Bác c̣n phải chờ…

        - Bác đă gặp Tiến sĩ Vơ Ngọc Châu chưa?

        - Có. Gặp rồi. Tiến sĩ Châu bảo tôi phải chờ tới năm hai ngàn lẻ 19…

        - Sao phải tới 2000 lẻ 19, thưa bác?

        - Năm đó, Bên Này sẽ có một biến cố trọng đại. Ông Châu cũng chờ… tới 2019 mới có người ở Bên Này sang Bên Ấy giữ Sổ Siêu Thoát thay phiên cho Tiến sĩ… Các con ạ, loài người ở Bên Này do đa phần không nắm được Thuyết Tương Đối, lại luôn bị nhốt tù trong Bể Khổ nên họ mỗi ngày một thêm nhỏ nhoi, tham lam, đố kị. V́ bị ép buộc sống bên nhau, lại chịu một Trời độc đoán đè nén nên càng ngày họ càng hèn hạ, càng hiểm độc tàn ác hơn. Cái mối dây ràng buộc liên hệ đó tệ hại khủng khiếp đến nỗi sang tới Bên Ấy rồi không phải ai cũng dễ dàng được Siêu thoát cả…

        Những kẻ độc ác một cách hồn nhiên đó, cháu Thùy Dương ạ, hầu hết đều mắc tội và phạm tội. Họ vừa là nạn nhân lại vừa là phạm nhân… Làm sao chúng ta dễ dàng thoát ra khỏi mối liên hệ ấy? Bác đă nói rồi… C̣n trường hợp bác th́…

        - Cháu hiểu. - Thùy Dương bồng bột - Ôi bác! Trong gia đ́nh Nhân loại ai cũng chỉ mong có được một người cha như bác; và cũng… mong sinh ra được một người con như bác..

        - Cháu không quá lời đấy chứ? Bác đă gặp cha của cháu… Ông ấy là một người rất đáng mến…

        - Bác ơi! Hồi c̣n ở Bên Này, dẫu nhiều khi sống lăng nhăng bậy bạ, cháu vẫn ăn nói thật ḷng không chút giả trá. Chị Uyên không am hiểu đời sống xă hội bằng cháu đâu. Cháu biết rơ, cái lũ tự phong ta đây là thần thánh, chẳng có đứa nào đáng được gọi là người, toàn một bọn chó má, quỷ sứ, đồ ba que xỏ lá cả!

        Ông Vỹ ngần ngừ, phân vân.

        Thùy Dương càng hăng:

        - Nếu bác theo đạo Ki-tô, chắc Toà thánh La Mă đă phong Thánh cho bác!

        Ông Vỹ cười, vẫn nụ cười không thành tiếng, êm sâu như một vết thương.

        - Không dám đâu, cháu! Bác nào có mơ ước làm một Jeanne d’ Arc?

        - Thế th́… chắc bác phải là một vị Bồ Tát?

        Ông Vỹ lại cười:

        - Càng không dám… hai chữ Bồ Tát theo giáo lư Nhà Phật mà có lần bác t́m hiểu, có nghĩa là “chúng sinh đă giải ngộ”. Phải không cháu? Giải ngộ cho ḿnh chưa đủ, c̣n phải giải ngộ cho người khác nữa! Thùy Dương ơi, bác Vỹ của cháu, nếu tính tuổi từ lúc mới sinh ra đến bây giờ cũng đă gần cả trăm năm trong cơi người… Vậy mà, bác vẫn chưa hiểu được ḿnh là ai; v́ sao ḿnh lại sinh ra vào đúng cái thời khốc hại, ê chề, độc địa, tối tăm có một không hai này? Và cái ṿng luân hồi sinh tử, tử sinh này đến bao giờ mới ngừng quay?

        Ngậm ngùi một lúc, ông nói thêm như để cho riêng ḿnh nghe:

        - Tôi theo Đạo Con Người, đạo của chính tôi. Lúc ở Bên Này sang Bên Ấy, tôi đă nhận biết: có Trời ở trên đầu, có Đất ở dưới chân, có cha mẹ ông bà tổ tiên họ Mai sinh ra ḿnh. Đạo của tôi là Đạo Ông Bà Tổ Tiên, Đạo ở quanh ḿnh, khắp nơi khắp chốn…

        Rồi quay sang Lệ Uyên:

        - Con gái yêu của thầy mẹ… Thầy đă kể hết rồi. Toại nguyện chưa? Chúc mừng các con được Siêu thoát. Thôi, để thầy đi!

        Lệ Uyên hờn dỗi, vùng vằng:

        - Chúng con không thể chờ thầy được sao? Thầy khoan hẵng đi!

        Ông Vỹ chăm chú nh́n Lệ Uyên:

        - Lạ thật! Con không có thay đổi bao nhiêu. Từ hồi ấy cho đến nay, 45 năm rồi, làn môi con gái họ Mai tôi vẫn thế, dỗi hờn, phụng phịu, thấm mọng nước mắt…

        Đột nhiên ông thoáng giật ḿnh, sửng sốt:

        - Thôi, thầy phải đi…

        Lệ Uyên hốt hoảng:

        - Không! Không! Thầy cho con đi với! Biết thế này th́… thà con đừng có Siêu thoát nữa!

        Ông Vỹ giơ tay ngăn lại:

        - Đừng! Đừng! Con người ta có mệnh hệ, con ơi! Mệnh hệ con từ lúc mới sinh ra là để gắn với thầy. 45 năm qua, cha con ḿnh chỉ nghĩ tới nhau. Thầy mong gặp lại con ở Bên Này để kể lại đầu đuôi câu chuyện cho con nghe. Nếu chỉ riêng có hai cha con ḿnh thôi th́ như vậy e rằng chưa đủ. Bởi Nhân loại-Lớn cần có một người thứ ba nữa xác nhận, chứng kiến, đó là Thùy Dương, em kết nghĩa của con. Thùy Dương cũng là con của thầy mẹ. Các con cứ yên tâm mà Siêu thoát. Thôi nhé, thầy đi…

        Ông Vỹ lùi lại. H́nh bóng ông nhỏ dần… Chỉ c̣n một đốm sáng loé lên.

        Rồi tắt.

        Biến…

 

 

CHƯƠNG 46

ĐOẠN KẾT (EPILOGUE)

SIÊU THOÁT

 

        Lại trở về Bên Ấy…

        Họ ngồi bên nhau im lặng.

        Họ biết cái câu ḿnh hoặc người kia sẽ nói lên, chỉ câu ấy thôi, hễ đă nói xong là một đột biến sẽ xẩy ra. Đột biến này xem ra rồi quá sức chịu đựng!

        Lúc c̣n ở Dương gian, như mọi con người, cả hai đều sợ Chết, bây giờ một nỗi sợ khác xem ra c̣n lớn hơn, chiếm đoạt, ngự trị h́nh hài họ, thứ h́nh hài mảnh hơn ánh sáng, nhẹ hơn không khí cả siêu lần: nỗi sợ phải xa nhau!

        Lệ Uyên chăm chú nh́n cô em kết nghĩa.

        Cái đầu hơi nhỏ, mái tóc uốn kiểu con trai úp lên như chiếc súp lơ Đà Lạt nhuộm màu hoe khiến cho ả có vẻ ngây thơ dễ thương của một cô bé lai Tây, góp phần xoá bớt, mờ nhạt đi những nét chưa hoàn hảo của cánh mũi hếch, vầng trán hơi cao mà hẹp, hai con mắt hơi lồi bộc lộ sự ĺ lợm ham hố lắm khi nóng nảy đến dại dột…

        Để bù trừ lại cái “trôốc” chưa lấy ǵ làm hoàn mỹ lắm, Bà Mụ đă nặn cho cô em một cặp môi phải nói rất chi là đáng kể, dẫu rằng có hơi mỏng một chút nhưng lại rất tươi. Màu tươi tự nhiên như cánh sen, nụ hồng lẽ ra chẳng cần tới mỹ phẩm (Thùy Dương đă hối hận v́ đua đ̣i lây nhiễm phải thói quen dại dột thời hiện đại), mỗi khi cần mở ra hay khép lại để tŕnh diễn hai hàm răng sáng bóng đều đặn không thể chê vào đâu được, đến nỗi Lệ Uyên đôi lúc cũng phải thầm so sánh tự thấy hàm răng của ḿnh đúng là chưa đạt được điểm 10 như vậy, Hàm răng ấy khi phát ra, dù là âm điệu chọ chẹ của xứ “cà cuống có đuôi” vẫn đầy ma lực cuốn hút ḷng hảo tâm, hào hiệp của phái mạnh!

        Có lẽ chàng Lê Vĩnh thuở hoa niên đă đắm say một trong hai cái “góc” của nàng Phan Thị Thùy Dương thuở ban đầu gặp gỡ làm chi; sau này th́ kể sao cho hết những đấng mày râu thời Đổi mới Tư duy lần lượt xếp hàng đứng sau, thế chân cho Lê Vĩnh, kẻ đă có tội phản bội và cũng góp công đột phá đổi mới nàng…

        Nổi trội hơn cả có lẽ là Lăo Hướn và kết thúc là đại tá Mai Đắc Xuân, người t́nh lư tưởng của nàng!

        Biết kể sao cho hết bao kẻ không tên và có tên đă tự nguyện xung phong hoàn thành nhiệm vụ để làm thoả măn khát vọng đổi đời của cô gái núi Hồng sông Lam!

        Không ai đáng yêu dễ thương hơn cô em kết nghĩa của ḿnh. Lệ Uyên thầm nghĩ. Mọi tiêu chuẩn về đạo đức, thẩm mỹ ở Bên Ấy, qua bao đời tưởng đă thành khuôn mẫu cho mọi người noi theo làm theo, bây giờ trở nên mớ ḅng bong phế thải những lầm lẫn và ngu dốt!

        Trong khi đó, Thùy Dương đă ngả người vào ḷng chị kết nghĩa, mắt nhắm tay ôm gh́… Lệ Uyên khẽ kéo cái váy đầm bó xuống, phủ che đầu gối và cặp gị hơi nhỏ nhưng rất thẳng của cô em. Cử chỉ này làm Thùy Dương thoáng mỉm nụ cười biết ơn. Nụ cười dễ thương đến nỗi không kiềm chế được, Lệ Uyên phải cúi xuống đặt một cái hôn lên cặp môi hồng thắm, quên mất ḿnh đang luyến ái đồng tính, điều mà nhân loại vẫn c̣n tranh căi, rào cản…

        Thùy Dương mở mắt ra. Ả cười. Trong mắt ả, người chị hiền thục và xinh đẹp, gần như trái ngược hoàn toàn với h́nh thể tư chất con người ả một thời, tưởng chừng như mâu thuẫn đến chối bỏ, phủ nhận th́ nay đă gắn bó đến hài hoà: Chị của em, em yêu chị biết bao! Em chẳng bao giờ muốn xa chị!…

        Lệ Uyên đọc được ư nghĩ ấy. Lẽ ra chị phải đặt ngay một cái hôn tiếp lên đôi mắt kia, nhưng đă ngập ngừng khiến cặp môi yếu đuối của ả phải run lên, mấp máy…

        - Chị em ḿnh…

        Lệ Uyên vội vàng đặt bàn tay lên miệng Thùy Dương nhưng đâu c̣n kịp nữa, một phần nửa câu c̣n lại của cô em đă lọt qua kẽ tay chị, dẫu hơi lệch pha nhưng vẫn rành rọt:

        - … Rồi sẽ ra sao đây?

 

        Đột nhiên cả hai cùng rùng lên một cái, buông rời… Họ đều cố cưỡng lại, chới với, xáp vào nhau. Nhưng một lực kéo đến từ đâu hai phía, giữ họ lại, lôi họ ra khiến họ cảm thấy ḿnh mỗi lúc một đuối sức và sự gắng sức của cả hai trở nên vô nghĩa. Người nọ thấy người kia cứ như giật lùi, trôi đi… mỗi lúc một cách xa nhau hơn.

        - Lệ Uyên ơi!

        Thùy Dương kêu lên rồi bật khóc.

        - Thùy Dương! Chị đây mà…

        Lệ Uyên nghẹn ngào, giơ tay vẫy…

        - Chị…

        - Em…

        - Ơ ḱa! Chúng ta măi măi xa nhau hay sao?

        - Chị em ḿnh rồi sẽ… lại gặp nhau…

        - Gặp nhau ở đâu?

        - Chưa rơ. Nhưng chắc rồi sẽ… gặp lại nhau. Em cứ tin đi!

        - Biết thế này th́ chị em ḿnh thôi đừng có Siêu thoát nữa! Siêu thoát nỏ làm cái chi! Lệ Uyên ơi, em có mơ chi Thiên Đường, Niết Bàn như người ta đâu! Mà Thiên Đường, Niết Bàn dù có thật đi nữa rồi cũng chỉ nên hiện hữu, tồn tại ngay trong hiện tại của Cơi Trần chúng ta… Kiếp trước đă qua rồi, kiếp sau c̣n nói làm quái ǵ! Cứ ngồi đó mà chờ ngày mai tươi đẹp, mà đợi kiếp sau đàng hoàng! Chị em ḿnh thà bị nhốt giam đời đời, muôn năm trong cái nhà tù đoạn trường, Bể Khổ            Trần gian… c̣n hơn là Siêu thoát như thế này!

        Tiếng nấc.

        Tiếng khóc.

        Hai đốm sáng nhỏ dần.

        Tắt.

        Biến.

        Đầu năm 2002 - Noel 2005

        Hoàn chỉnh năm 2009

        TRẦN THẾ NHÂN

BẠT

        Thưa Quư độc giả!

        Đến đây Quư vị đă đọc xong cuốn “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất”.

        Với những vị đă cao niên, từng kinh qua thực trạng xă hội Miền Bắc Việt Nam trong những năm 50 của thế kỷ trước, đều biết chắc chắn rằng cuốn tiểu thuyết “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” không khác ǵ một bộ phim phóng sự với độ xác thực 100% từ A tới Z.

        Nhưng với những bạn sinh sau đẻ muộn, lại đang được sống trong một xă hội tự do dân chủ, rất có thể sẽ cảm thấy khó tin rằng ở quê hương chúng ta lại có một thời kỳ khủng khiếp hơn cả cảnh cuối tầng Địa ngục như vậy. Thật là ngoài sức tưởng tượng có phải không?! Nếu các bạn phân vân như vậy, thay v́ tôi lớn tiếng dơng dạc tuyên bố: xin đem trọn cái mạng của ḿnh ra đảm bảo cho cái điều không thể tin được đó là SỰ THẬT, th́ tôi chỉ xin mời quư bạn hăy ghé về Việt Nam lúc này – thời kỳ những năm đầu thiên niên kỷ thứ ba – mà sống và chiêm nghiệm, dù chỉ một ngày thôi – cũng đủ để bạn nếm trải những ǵ đă được “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” ghi lại. Cảnh ấy, người ấy, không khí xă hội ấy, bạn tưởng chỉ là một quá khứ ngắn ngủi bi thảm của dân tộc ư? Không đâu! Thảm trạng ấy vẫn đang tiếp diễn nhăn tiền.

Quái thai độc tài đảng trị đă và vẫn đang ở cao trào đào huyệt nhằm chôn sống cả Dân Tộc. Hăy làm những ǵ trong khả năng của bạn để mỗi người và mọi người thấy, biết và hiểu rơ được điều này, cho bây giờ và cho cả mai sau./.

        Nguyễn Quảng Tâm.

 

 

SUY NGẪM

KHI ĐỌC “NGÀY LONG TRỜI ĐÊM LỞ ĐẤT”

CỦA TRẦN THẾ NHÂN

 

        … Ôi ! quê hương

        Hỡi những ngày xưa !

        Thủy chung - nhân ái

        Tất cả ch́m-ngâm

        Trong lừa dối cuồng điên…

        Phùng Cung (1965)

        Trong suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm của Dân Tộc ta, chưa từng có một trận thảm sát nào mà người Việt lại giết hại người Việt khủng khiếp như trong cuộc Cải cách Ruộng đất (CCRĐ) dưới “thời đại Hồ Chí Minh” hồi giữa thập niên 50 thế kỷ 20! Đó là trận thảm sát dân lành cực kỳ man rợ do đầu óc kỳ thị giai cấp, do ư thức hệ Cộng sản của tập đoàn cầm quyền gây nên!

        Trên thế giới đă từng có nhiều nước làm CCRĐ. Phần đông người ta làm một cách ôn hoà bằng cách Nhà nước mua lại số ruộng đất chủ sở hữu có trên tiêu chuẩn do NN quy định, hoặc cho phép họ được hiến tặng. Nhờ đó, các nước ấy đă nhẹ nhàng xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển mạnh, đồng thời giữ được hoà khí và ổn định xă hội, tránh những đảo lộn nguy hại.

        Thế nhưng, các “lănh tụ” Cộng sản th́ cho đó là con đường “thoả hiệp giai cấp”, không đúng đường lối chủ nghĩa Marx-Lenin, không thể hiện tinh thần “đấu tranh giai cấp”, không phát động được ḷng “căm thù giai cấp”, không mang tính “cách mạng triệt để”… Theo họ, CCRĐ phải là một “cuộc cách mạng long trời lở đất”. Phải “phóng tay phát động quần chúng”, nghĩa là làm hết sức mănh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, có thế mới dấy lên ḷng căm thù giai cấp cao độ trong quần chúng bần cố nông mà họ coi là “quân chủ lực cách mạng” để đánh gục giai cấp địa chủ.

        Đảng Cộng Sản dơng dạc tuyên bố CCRĐ là để thực hiện “người cày có ruộng”, ước mơ ngàn đời của nông dân. (1) Nhưng, đó chỉ là trên lời nói! C̣n trong thâm tâm, các “lănh tụ” Cộng sản có một ư đồ khác hẳn, nhắm những mục tiêu khác hẳn. Họ dùng khẩu hiệu “người cày có ruộng” làm “con mồi” nhử nông dân mà họ coi là “đồng minh chiến lược” (2) đi theo họ thực hiện những mục đích xa hơn, độc địa hơn. Họ dùng CCRĐ để tiêu diệt giới hữu sản bị họ coi là “giai cấp bóc lột” ở nông thôn, để truy quét các thành phần mà họ cho là “phản động”, quét sạch các tư tưởng và hệ thống giá trị đạo lư cổ truyền nặng về quyền tư hữu, loại bỏ cuộc sống tâm linh trái với chủ nghĩa vô thần của họ, xoá bỏ đạo đức truyền thống của gia đ́nh, thôn xóm mà nền văn hoá làng xă lâu đời ở nước ta đă để lại. Chủ ư của họ c̣n là khủng bố tinh thần nhân dân, gây ra nỗi khiếp sợ triền miên trong người dân nhằm triệt tiêu mọi mầm mống chống đối họ. Họ ra sức xúi giục, kích động ḷng hận thù, gieo rắc tính độc ác, tham lam, dối trá, đểu cáng… vào ḷng người nông dân vốn chất phác, hiền lành… Tất cả những điều đó nhằm mở đường thực hiện cuộc cách mạng XHCN và huy động “quân chủ lực cách mạng” xông vào trận chiến đánh chiếm miền Nam.

        Chính với ư đồ đó, các “lănh tụ” Cộng sản đă gây ra những tội ác tày trời đối với Dân Tộc: họ đă biến CCRĐ và Chỉnh đốn Tổ chức thành một cuộc đày đọa, tàn sát dân lành và cả các cán bộ đă từng đứng dưới lá cờ của họ. Trong lúc nhân dân đang sống yên lành th́ bỗng dưng Đảng phái những “Đội cải cách” về làng xă khép “tội” địa chủ cho nửa triệu người trong nước VN Dân Chủ Cộng Hoà (với dân số nông thôn hồi đó trên 10 triệu) (3), và số người này ngay lập tức bị hành hạ, bị đọa đày, bị giày xéo tận bùn đen! Hơn nữa, trên 172 ngàn sinh mạng vô tội đă gục xuống dưới lưỡi gươm “chuyên chính vô sản” v́ bị quy oan là địa chủ cường hào gian ác, Việt gian, phản động, gián điệp, Quốc Dân Đảng! (4) Những cuộc “đấu tố” với cảnh con đấu cha, vợ tố chồng, con dâu vu oan cho bố chồng, con rể giá họa cho mẹ vợ, bà con, hàng xóm, láng giềng tố điêu lẫn nhau… đă đảo lộn đạo đức thông thường, giày xéo lên nền văn hiến lâu đời của người Việt, phá hoại truyền thống hoà hiếu, “lá lành đùm lá rách”, “tối lửa tắt đèn có nhau” của cư dân làng xă nước ta. C̣n điều các “lănh tụ” Cộng sản không ngừng rao giảng: “xây dựng con người mới” theo “đạo đức mới”, tức là “đạo đức Cộng sản” và “tư tưởng Hồ Chí Minh”, th́… than ôi, ngày nay, nhân dân ta đă thấy quá rơ “kết quả” thực tế rồi: đạo đức băng hoại, xă hội sa đọa, nạn tham nhũng tràn lan, nạn mua quan bán chức phổ biến, tệ nạn lừa dối, đảo điên, đểu cáng, độc ác… nhan nhản khắp nơi trong nước.

        C̣n câu chuyện hoang đường “người cày có ruộng” hoá ra là… một “quả lừa vĩ đại” mà Đảng Cộng Sản đă cho nông dân “xơi” đến bội thực! V́ CCRĐ vừa xong hồi cuối năm 1956, một số nông dân vừa mới hí hửng “cắm thẻ nhận ruộng” để Đảng chụp ảnh quay phim tuyên truyền th́ đến năm 1957-1958, họ đă bị Đảng lùa vào hợp tác xă để “tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xă hội”. Thế là ruộng đất của nông dân biến thành của hợp tác xă, c̣n người nông dân th́ hoàn toàn lệ thuộc vào ban chủ nhiệm hợp tác xă, vào đảng uỷ và uỷ ban xă như những nông nô! Đến khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà “được” Đảng chuyển thành Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam th́… chỉ bằng một câu ngắn gọn trong Điều 19 của Hiến pháp năm 1980 “Đất đai, rừng núi, sông hồ… đều thuộc sở hữu toàn dân”, Đảng đă tịch thu một cách ngon ơ toàn bộ ruộng đất của nông dân, đất đai của toàn dân! Nông dân và nhân dân bị Đảng tước đoạt quyền sở hữu về ruộng đất, nói chung về đất đai, trong nháy mắt! Thế là ước mơ ngàn đời của nông dân măi măi vẫn chỉ là… “ước” và “mơ”!

        “Quả lừa vĩ đại” này của Đảng chẳng phải một ḿnh nông dân bị mà cả đại bộ phận nhân dân nước ta cũng bị. Thậm chí nhiều nạn nhân, khi đă “dựa cọc” rồi, sắp bị hành quyết mà vẫn chưa tỉnh, cứ nghĩ rằng tai họa của họ là do mấy “ông bà Đội” gây ra, nên trước khi chết có người vẫn gắng gượng kêu lên mấy tiếng “Hồ Chí Minh muôn năm!”. Con cái của họ, kể cả nhiều người có học thức mà vẫn cứ bị lừa cho đến… hơi thở cuối cùng! Mà chẳng những nhân dân ta, ngay cả một phần dư luận thế giới, một số nhà đại trí thức nổi tiếng cũng bị đánh lừa! Cố nhiên, đến bây giờ th́ thế giới người ta tỉnh rồi, chỉ có một số khá đông người Việt Nam ta vẫn c̣n mê muội hoặc… giả vờ mê muội.

        Mỉa mai thay, nửa thế kỷ sau cuộc “cách mạng long trời lở đất”, dường như Lịch sử Việt Nam lại trôi theo ḍng chảy ngược! CCRĐ (1953-1956) “đă đánh đổ giai cấp địa chủ” th́ giờ đây, ở nước Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, lại xuất hiện những địa chủ mới mà dân ta gọi là bọn “cường hào đỏ”, v́ chúng là những cán bộ Cộng sản lợi dụng chức quyền chiếm dụng đất đai (là sở hữu toàn dân!) phát canh, thu tô, cho vay nặng lăi ở nông thôn để bóc lột chẳng khác ǵ địa chủ thời xưa. Giáo sư Viện sĩ Đào Thế Tuấn đă phải nói thẳng thừng: “Không có nước nào (như ở nước ta) người nông dân bị bạc đăi, bóc lột, hiếp đáp bởi bọn cường hào mới, đa số là đảng viên trong các đảng ủy điạ phương được cấp trên thông đồng che chở. Không ở đâu, chưa bao giờ nông dân bị tước đoạt đất ruộng qua “thu hồi” kiểu cưỡng bức và tùy tiện, với chính sách “đền bù” nhảm nhí, “bèo bọt” chỉ bằng một phần 10, có khi chỉ một phần 20 của giá trị thực!” Giờ đây lại xuất hiện cảnh nông dân cầm cố ruộng đất mà họ được phép sử dụng để đi làm thuê làm mướn hoặc đi tha phương cầu thực, các nhà khoa học xă hội gọi đó là “t́nh trạng ly nông”. Giờ đây xuất hiện thêm một lớp người “mới” có tên gọi là “dân oan”, tức là gần một triệu nông dân và người lao động bị chiếm đoạt đất đai, bị cướp đoạt nhà cửa đi “kêu oan”, thậm chí đi biểu t́nh, ở các “cửa quan” Cộng sản hàng chục năm trời mà vẫn “không đi đến đâu cả”! Giờ đây c̣n xuất hiện thêm những cảnh tượng nhục nhă chưa từng thấy trong lịch sử nước nhà: “nhà nước xă hội chủ nghĩa” đem trên nửa triệu nam nữ nông dân, lao động “xuất khẩu” ra nước ngoài bán cơ bắp, mồ hôi, nước mắt và cả máu nữa để nhà nước thu về hàng nhiều triệu đô la (5); “nhà nước xă hội chủ nghĩa” cho phép các dịch vụ “buôn người” dưới dạng “lấy chồng ngoại quốc” đưa hàng mấy trăm ngàn cô gái nông thôn v́ nghèo đói phải bỏ mẹ cha, bỏ anh chị em, bỏ quê hương làng xóm để… bán ḿnh cho các “ông… chồng” Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc…, thực chất là đi làm nô lệ, kể cả nô lệ t́nh dục! (6) Nhiều nhà nghiên cứu và nhà báo trung thực trong nước đă mô tả cuộc sống của người nông dân Việt Nam ngày nay c̣n lầm than, khổ ải hơn hồi trước “cách mạng”, hơn trước ngày “thống nhất đất nước”! Đó là sự thật hết sức phũ phàng mà nông dân Việt Nam đang phải ngậm đắng nuốt cay cúi đầu chịu đựng!

        CCRĐ “long trời lở đất” như vậy, một sự kiện lịch sử lớn lao như vậy, thế mà đă trên nửa thế kỷ qua, chưa có một công tŕnh nghiên cứu chân thật, khách quan nào của các nhà khoa học trong nước được công bố! Chưa có một tác phẩm nghệ thuật, văn chương nào của các nhạc sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc, nhà văn, nhà thơ… trong nước diễn tả lại tấn thảm kịch đầy đau thương của Dân Tộc! Chẳng phải v́ giới trí thức sáng tạo nước ta thiếu người có tài, có tâm, mà chỉ v́ ngay sau CCRĐ các “lănh tụ” Cộng sản đă coi đó là một trong những đề tài cấm kỵ không ai được đụng đến. Cái tabou khắc nghiệt này th́ đám quan chức của chế độ cực quyền ngày đêm canh giữ nghiêm ngặt măi cho đến ngày nay!

        Hồi đầu cuộc “đổi mới”, cuốn “Ác Mộng” của Ngô Ngọc Bội chỉ mới dám lướt nhẹ qua chuyện “cải cách”… Măi đến gần đây, đầu thế kỷ 21, mới lác đác xuất hiện vài cuốn tiểu thuyết đề cập thẳng đến đề tài cấm kỵ đó. Cuốn “Ba Người Khác” của Tô Hoài, hoàn thành từ năm 1992 nhưng chật vật măi đến năm 2006 mới được xuất bản. Cuốn “Nước Mắt Một Thời” của Nguyễn Khoa Đăng sắp xuất bản th́ bị cấm ngay tức th́ và cuốn “Thời Của Thánh Thần” của Hoàng Minh Tường vừa in xong, chưa kịp phát hành th́ số sách in đă bị Đảng ra lệnh thu hồi để nghiền làm bột giấy!! Một hành động man rợ, phản văn hoá của bọn Tần Thủy Hoàng thời nay!

        Người viết những ḍng này đă phải sống suốt quăng thời gian “long trời lở đất” rất kinh hoàng, đầy bi thương, đầy máu lệ, đầy chết chóc, đầy tàn phá, đầy “lừa dối cuồng điên”... Đă nhiều lần dự hội nghị về CCRĐ, được nghe “Bác Hồ vĩ đại” và “Anh Cả Trường Chinh” huấn thị về “CCRĐ”, “Chỉnh đốn Tổ chức”, về “phóng tay phát động quần chúng”... Đă từng chứng kiến nhiều cuộc đấu “địa chủ cường hào ác bá” ở Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Đông. Cũng đă từng đi làm nửa đợt “cải cách” ở Thái B́nh, giữa chừng th́ Thành uỷ xin về Hà Nội để nhận trách nhiệm lănh đạo công tác “sửa sai cải cách” ở Ngoại Thành Hà Nội. CCRĐ quả là một cú đẩy mạnh làm người viết thức tỉnh, đánh giá lại Đảng Cộng Sản và các “lănh tụ” của Đảng, cũng như nh́n lại con đường ḿnh đă đi… Đó là khởi đầu cho một quá tŕnh đấu tranh, dằn vặt, đau đớn để có được một nhăn quan mới, tư duy mới, cuối cùng dẫn đến việc rời bỏ Đảng Cộng Sản. Chính v́ thế, người viết biết rơ nỗi đau khổ của bà con nông dân, vô cùng thông cảm với các nạn nhân của CCRĐ và nóng ḷng mong mỏi được thấy những tác phẩm văn học nghệ thuật chân thật mô tả về sự kiện lịch sử đau thương này.

        Thế rồi, hồi năm 1996, tôi đặc biệt cảm động khi lần đầu tiên được cầm trong tay tập copy bản thảo tiểu thuyết “Ba Người Khác” của Tô Hoài. Tôi thầm cảm ơn nhà văn Tô Hoài đă giáng một đ̣n mạnh vào cái tabou kỳ quái của Đảng để hé ra cho độc giả biết được phần nào sự thật về Cải cách RĐ. Ông là nhà văn lăo thành có tên tuổi ở nước ta nên cái gương sáng của ông sẽ cổ vũ nhiều người khác noi theo.

        Đọc xong, tôi đưa “Ba Người Khác” cho một ông bạn già xem. Ông ta đọc kỹ lắm rồi gặp tôi, ông bực bội phán: “Viết về CCRĐ mà Tô Hoài chỉ kể về ba thằng Đội ba lăng nhăng ấy th́ không được! Phải nói đến “Ba Người Khác” cơ!” Tôi hỏi lại: “Là ai?” Ông đáp: “Ai nữa? Là Bác Hồ vĩ đại, Bác Mao cũng vĩ đại và Cụ Xít càng vĩ đại! Chính ba ông đầu nậu ấy đă bày ra cái chuyện “cải cách” ở nước ta”. Tôi nói: “Anh nói cũng đúng thôi! Không có Cụ Hồ và Đảng Cộng Sản, và Cụ Hồ không đi xin “chỉ thị” Cụ Xít, không xin phép Cụ Mao cho rước đoàn cố vấn Tàu sang th́ chẳng có chuyện “cải cách” khủng khiếp này”. Anh ta hăng lên: “Đó là nói hàng trên. C̣n dưới một bậc th́ “Ba Người Khác” là “Anh Thận” (Trường Chinh), sau đổi là Năm để nhún nhường đứng sau Ba Duẩn, rồi đến thằng cha Hồ Viết Thắng và “Anh Lành” (Tố Hữu) “nhưng dạ chẳng lành” (7). Tôi hỏi: “Tố Hữu th́ có liên quan ǵ đến? Lăo ta không có chân trong Uỷ ban CCRĐ Trung ương mà”. Anh ta đáp: “Thế anh không biết à, y là kẻ “gác cổng” tư tưởng của Đảng ta. Y phụ trách công tác tuyên truyền cho chiến dịch “cải cách” đấy. Chính y đă đánh tơi bời Trần Bá Xá chỉ v́ cái truyện ngắn chân thật “Anh C̣ Lấm” đăng trên tạp chí “Tổ Quốc” hồi tháng 1 năm 1956, y buộc cho tác giả những tội “chết người”, như có tư tưởng phản động của giai cấp địa chủ, chống phá chính sách CCRĐ! Ban biên tập “Tổ Quốc” cũng điêu đứng v́ y. Rồi đến khi Hà Minh Tuân cho ra cuốn “Vào Đời” có đụng chi mấy đến chuyện “cải cách” đâu mà y và lăo (Nguyễn Chí) Thanh xúm vào đánh cho tơi bời, kỷ luật tùm lum. Cũng chính y đă tung ra những câu thơ sặc mùi đao phủ để kích thêm đầu óc hiếu sát của các Đội cải cách. Anh c̣n nhớ không?” Rồi anh ta đọc vanh vách:

        Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,

        Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế (8) mau xong,

        Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung ḷng,

        Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt”…

        Chuyện phiếm đàm của hai ông bạn già chúng tôi c̣n dài. Nhưng, nói chuyện nghiêm chỉnh th́ phải công nhận là Tô Hoài đă bất chấp tabou, đề cập đến một đề tài “rất nhạy cảm”, và với văn tài của ḿnh ông đă tạo nên một cuốn tiểu thuyết khá hấp dẫn. Ông đă vẽ lên rất rơ nét h́nh ảnh ba “anh Đội” cải cách – đội trưởng Cự, đội phó Bối kiêm chánh án và một cán bộ Đội tên Đ́nh. Cả ba gă này mỗi tên một vẻ nhưng đều có tính lưu manh, đều hám quyền lực, đều dối trá, ham gái, dâm đăng và không gờm tay trước tội ác. Tác giả đă mô tả rất “ấn tượng” những cảnh hoang dâm, quần dâm của ba “anh Đội” với các cô “rễ chuỗi” bần cố, với các nàng dân quân… tạo nên một cảm giác tởm lợm của người đọc đối với mấy tên này. Tuy nhiên, người đọc tinh ư thấy rơ rằng Tô Hoài dù đă đụng đến đề tài CCRĐ nhưng lại tránh né, không dám phơi bày thực chất và nguồn cơn tấn thảm kịch của Dân Tộc đă diễn ra trong lịch sử. Độc giả chờ đợi rất nhiều ở một nhà văn có tầm cỡ như Tô Hoài, nhà văn đă từng tham gia hai đợt CCRĐ, làm đội phó lại kiêm chánh án Đội cải cách, họ hy vọng được thấy từ ng̣i bút của ông hiện lên một bức tranh toàn cảnh đồ sộ, chân thật về cuộc đảo lộn khủng khiếp này. Nhưng, đọc xong “Ba Người Khác”, độc giả vẫn chưa thấy được toàn bộ sự thật, “sự thật trần truồng” không che đậy. Người đọc bàng hoàng nghĩ rằng lẽ nào chỉ v́ ba cái thằng khốn nạn này mà mọi sự trong xă hội dưới thời “dân chủ cộng hoà” lại đảo lộn tùng phèo đến như thế ư? Thế th́ ai cho chúng nó cái quyền “nhất Đội nh́ Trời” để chúng nó tác oai tác quái làm những chuyện “long trời lở đất” như vậy? Ai đă vạch đường chỉ lối cho chúng, ai đă “phóng tay” cho chúng làm “cách mạng long trời lở đất”, làm loạn xị cả một vùng nông thôn như vậy? Ai đă đă kích động chúng “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ” để cho chúng thẳng tay tàn sát dân lành không chút xót thương? Ai? Ai?? Nhiều người cho rằng Tô Hoài là đảng viên Cộng sản, một cán bộ quan trọng của Đảng trong lĩnh vực văn học, một nhà văn-con cưng của chế độ, ông muốn sống “tṛn” với Đảng nên dù có đề cập đến CCRĐ, nhưng ông đă hết sức gượng nhẹ, cố lái câu chuyện sang một hướng khác. Đoạn kết của tiểu thuyết, tác giả “cho” Đội trưởng Cự chạy vào Nam đầu hàng địch và bị “quân ta” giết… th́ càng làm cho người đọc lạc hướng hơn nữa, dường như “Mỹ Nguỵ” có dính líu ǵ đến những chuyện xấu xa, những điều man rợ, những đảo lộn xă hội khủng khiếp hồi CCRĐ. Cố nhiên, cách kết cấu cốt truyện, hư cấu t́nh tiết là quyền của tác giả, nhưng độc giả có quyền đ̣i hỏi tác giả phải làm sáng tỏ sự thật của những tội ác tày trời.

        Cuốn “Nước Mắt Một Thời” của Nguyễn Khoa Đăng và cuốn “Thời Của Thánh Thần” của Hoàng Minh Tường tôi cũng được đọc khá sớm bản photocopy từ trong nước gửi ra. Sau đó ít lâu, một người bạn thân trong nước gửi cho cuốn “Thời Của Thánh Thần” c̣n thơm mùi mực. Đó là một trong những cuốn may mắn “lọt lưới” thu hồi của nhà nước!

        Điều đáng nêu lên ở đây là cả hai nhà văn Nguyễn Khoa Đăng và Hoàng Minh Tường đều rất can đảm “xông xáo” vào đề tài cấm kỵ này. Họ không ngần ngại mô tả rơ nét thảm cảnh kinh hoàng của nông thôn trong thời kỳ “cải cách”. Tuy nhiên, độc giả vẫn cảm thấy đôi chỗ c̣n gượng nhẹ, tránh né, dè dặt, mà đó là điều dễ hiểu, v́ các tác giả đang sống dưới chế độ cực quyền khắc nghiệt, lưỡi gươm “chuyên chính” luôn luôn lơ lửng trên đầu… Hơn nữa, những ai đă từng sống trong thời kỳ “cách mạng long trời lở đất” cũng dễ nhận thấy là hai tác giả chủ yếu chỉ được nghe kể lại những cảnh khủng khiếp thời “cải cách” chứ chưa thật sự sống trong đó, nên có những chỗ phản ánh không thật sát thực tế, dùng lời ăn tiếng nói không phải thuộc về thời ấy. Riêng Hoàng Minh Tường c̣n đi xa hơn thời “cải cách”, ông đă mở rộng khung cảnh xă hội ra cả giai đoạn sau này, muốn giúp độc giả thấy rơ tính liên tục của cả một thời đại lịch sử. Đó là một ư định rất tốt, nhưng v́ mở rộng quá nên phần sau của tiểu thuyết “Thời Của Thánh Thần” hơi bị loăng.

        C̣n tiểu thuyết sắp ra mắt người đọc nay mai, cuốn “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” của Trần Thế Nhân mà tôi vừa được xem bản thảo mới từ trong nước “vượt biên” ra ngoài th́ chủ yếu tập trung phản ánh cuộc CCRĐ ở một vùng thuộc tỉnh Thanh Hoá. Nhưng qua những màn “cải cách”, qua chuyện kể của các nhân vật, đôi lúc tác giả cũng nhẹ nhàng đụng đến những chuyện về sau, chuyện “hậu cải cách”.

        Tác giả là một người đă sống trong cuộc, cảm nhận sâu sắc nỗi đau của nhân dân và dũng cảm phơi bày sự thật kinh hoàng trên những trang viết. Tôi vốn là “dân” Khu Bốn (9), có dịp qua lại, quen biết vùng được mô tả trong truyện, biết rơ các “vị” mà dân địa phương coi là “hung thần cải cách”, như Hồ Viết Thắng, Đặng Thí, Chu Văn Biên… Ngay cả vài nạn nhân trong truyện tôi cũng đă từng nghe tên, v́ tác giả giữ tên thật. C̣n một số nhân vật khác tôi hơi ngờ ngợ là ḿnh đă nghe đâu đấy, có lẽ v́ lư do tế nhị nào đó tác giả đă đổi tên chút ít chăng. Cho nên tôi rất xúc động khi đọc những trang viết đượm đầy nước mắt trong “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất”. Tôi có thể khẳng định rằng cuốn tiểu thuyết này của nhà văn Trần Thế Nhân đă dựa trên “người thật việc thật” mô tả sự kiện kinh hoàng đúng như nó đă diễn ra, không chút dè dặt, e ngại, không chút gượng nhẹ. Có thể độc giả trẻ tuổi ngày nay khi đọc nhiều cảnh tượng hết sức lạ lùng, kỳ dị, quái đản, rùng rợn quá sức tưởng tượng, th́ không thể nào hiểu nổi làm sao trong cuộc sống đă có thể diễn ra những điều như thế được, đâm ra nghi ngờ tính chân thật của truyện. Nhưng, than ôi, những chuyện quái đản như thế hồi đó thật sự đă diễn ra và diễn ra ở nhiều nơi!

        Cố nhiên, đă là tiểu thuyết th́ tác giả phải hư cấu. Điều hư cấu nổi bật nhất là Trần Thế Nhân đă dùng “những người âm” của thế giới Bên Ấy để kể chuyện thật, rất thật của thế giới Bên Này. Tác giả dùng lối hư cấu đó v́… “Chết thật rồi/ mới dám nói/ Và Nói Thật!” (Khúc Dạo Đầu). Lối hư cấu này gần với tín ngưỡng dân gian, gần với đạo Phật, dễ được đại chúng chấp nhận. Có lẽ lối hư cấu này cũng không xa khoa học lắm khi gần đây các nhà vật lư học hiện đại đă phát hiện ra “vật chất đen”… Nhưng, điều quan trọng đáng nói là tác giả sử dụng lối hư cấu này thật nhuần nhuyễn đến mức người đọc thấy mọi sự kiện, mọi t́nh tiết trôi chảy rất tự nhiên, và câu chuyện rất đau thương lại cuốn hút mạnh tâm trí người đọc từ đầu đến cuối sách. Chính nhờ lối hư cấu này tác giả đă mô tả được rất chân thật nội tâm các nạn nhân của những “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” nửa thế kỷ trước. Trong một lá thư gửi bạn, tác giả tâm sự: khi viết tiểu thuyết này, tác giả có cảm giác rất thật rằng mọi lời nói, mọi sự kiện… trong tác phẩm là do chính người âm đồng hành, nhập vào tác giả mà kể lại.

        Đọc “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất”, tôi cảm nhận rằng Trần Thế Nhân đă thực hiện đúng thiên chức cao quư của người cầm bút để không tự nhốt ḿnh trong cái “chuồng văn” tù túng, ngột ngạt với đủ loại ư thức hệ Mác-Lê, đảng tính, chủ nghĩa hiện thực xă hội chủ nghĩa… vớ vẩn, nhảm nhí, không tự ép ḿnh phải đi theo “lề phải” của kẻ cầm quyền, ông mới có thể sáng tạo nên một thiên tiểu thuyết – nói theo từ ngữ thời thượng trong nước – sáng giá như vậy. Sáng giá cả về tính chân thật, cả về mặt văn chương.

        Bút pháp của tác giả b́nh dị mà táo bạo, trầm tĩnh, nhẹ nhàng mà da diết, xoáy sâu vào ḷng người đọc. Lối viết h́nh ảnh, bóng bẩy, ẩn dụ đôi khi xen vào những triết lư sâu xa. Giọng văn hóm hỉnh, châm biếm, hài hước, trào lộng gây hứng thú dù bức tranh toàn cảnh thật vô cùng ảm đạm.

        Có những câu nói thật thà, thơ ngây của nhân vật lại rất thâm thuư, nêu lên được thực chất của những vấn đề lớn. Chẳng hạn, câu nói mộc mạc của Thùy Dương, một nhân vật nữ: “Ông chồng yêu quư của em có lần bảo Bác Mao viết kịch bản. Nhà Hát tuồng Thiên An Môn diễn trước, rồi đưa sang Ba Đ́nh Hà Nội… Ta cứ thế mà làm theo Tàu…”. Suy cho cùng, câu nói đó phản ánh sự thật nửa thế kỷ trước và cả sự thật ngày nay, và cả những ǵ rất đắng cay cho Đất Nước, cho Dân Tộc ta nằm đằng sau sự thật khốn nạn đó nữa! Đúng thế, như chúng ta đều biết, chính sự thần phục, quỵ luỵ đớn hèn và sự lệ thuộc nhục nhă của kẻ cầm quyền CS đối với “Thiên triều Đỏ” nửa thế kỷ trước và cả ngày nay đă gây cho Đất Nước ta biết bao tai ách, kể cả việc mất đất, mất biển, và hiện đang đặt Dân Tộc ta trước hiểm họa mất nước rành rành!!

        Cái nh́n của tác giả đối với nông dân trong truyện rất công bằng: trong khi mô tả những “rễ chuỗi” gọi là “bần cố” có tính lưu manh, tham lam, độc ác, vô ơn vô ngh́, gieo oan giá họa cho người ngay, ông lại đưa lên h́nh ảnh những người nông dân hiền lành bị Đội ép buộc phải miễn cưỡng “tố điêu” ở “đấu trường” theo lời mớm của Đội, nhưng sau lưng Đội họ vẫn lén lút, thầm lặng giúp đỡ cho người bị oan. Hồi đó mà dám làm như vậy th́ thật là liều lĩnh, nhưng lương tâm thôi thúc họ phải hành động theo tính người, theo t́nh người, bất chấp hiểm nguy.

        Khác với mấy cuốn tiểu thuyết viết về CCRĐ mà nhiều người đă biết, như “Ba Người Khác” của Tô Hoài, “Nước Mắt Một Thời” của Nguyễn Khoa Đăng, “Thời Của Thánh Thần” của Hoàng Minh Tường, cuốn “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” của Trần Thế Nhân không chỉ phơi bày rất rơ nét những tội ác tày trời trong CCRĐ, mà c̣n khéo léo vẽ lên bằng những đường nét ẩn dụ để người đọc tinh ư có thể liên tưởng nhận ra được bộ mặt thật của những thủ phạm chính đă gây ra tội ác.

        Nhà văn mở đầu thiên tiểu thuyết của ḿnh bằng mấy chương kể lại câu chuyện bi thảm của nàng cung phi thời xưa. Nhưng chuyện xưa lại phảng phất bóng dáng một nàng “cung nữ” thời nay - thời “dân chủ cộng hoà” - cùng với “Đức Vua” và viên “Thượng Thư” đầy quyền lực cũng thời nay… Hoá ra, “khúc cung oán” thời nay lại ngậm ngùi, ai oán, bi thương, thê thảm hơn nhiều so với “Cung oán Ngâm Khúc” thời cụ Ôn Như Hầu Ng. Gia Thiều! Lối mở đầu như vậy làm người đọc cảm thấy dường như tấn thảm kịch đầy máu lệ của một con người bé nhỏ, yếu ớt lại mở đầu cho cả một loạt thảm kịch triền miên của nhân dân…

        Chẳng phải ngẫu nhiên mà trong truyện tác giả đă nói rơ tuổi tác của “Đức Vua” «triều nhà Nguyễn»: «Năm ấy Người đă 66 xuân». Nếu lấy năm 1955 là năm xảy ra cuộc CCRĐ ở huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá để tính, th́ năm sinh của “Đức Vua” thời nay nhằm đúng vào năm 1890. Một chi tiết khác «Sáu năm trước, Triều đ́nh đă xử chém ngang lưng một viên quan tổng kho. Dẫu y là công thần, đă từng theo gót chân Thiên Tử xông pha nơi lam chướng ngàn trùng, vào ra trong máu lửa, tên khuyển nho đầy tớ hoang dâm vô độ này đă biển thủ công quỹ và xài phí tài sản vương quốc để cung phụng tiệc cưới xa hoa của hắn….» hoàn toàn ăn khớp với sự kiện ngày 5 tháng 9 năm 1950, viên Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục quân nhu của Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bị xử tử theo lệnh của “Đức Vua”, tên này đă phạm tội tham ô lăng phí, lấy của công để tổ chức đám cưới xa hoa của y. Vụ án này xảy ra đúng sáu năm trước cuộc CCRĐ ở Thanh Hoá hồi năm 1955 mà tác giả đă mô tả.

        Giọng lưỡi của “Đức Vua” «triều nhà Nguyễn» nói về ḿnh với nàng cung nữ “Ḷng Trẫm nặng một nỗi thương đau. Khanh có biết chăng? Trẫm thương những con dân cơm chưa đủ no, áo chưa đủ ấm, bầy trẻ lớn lên chưa được cắp sách tới trường… Đất nước ngàn năm loạn lạc chinh chiến; may Trời cho c̣n lại được ít ngày thái b́nh yên vui… Vậy mà nay ngoại bang quay trở lại xâm chiếm, cắt chia. Chiến tranh lại tiếp nối chiến tranh. Nghe tiếng suối khóc, lắng tiếng gió than, ḷng Trẫm càng năo nề xót xa. Trăng càng sáng, nước non xinh đẹp càng tang thương, ḷng Trẫm càng nặng nỗi lo cho dân, chua xót niềm đau cho xứ sở. Trẫm làm sao nhắm mắt ngủ yên?...” sao mà giông giống giọng văn trong «Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động… » của… Trần Dân Tiên đến thế!

        Đó là vài chi tiết về “Đức Vua”. C̣n về nàng cung nữ thời xưa th́ những nét chấm phá rất nhỏ, như «cái áo màu xanh chàm kiểu bà ba không có túi, cái váy dệt thổ cẩm dài sát đất», «vẻ đẹp sơn dă thâm u», «giọng nói của đàn bà phương Bắc»… làm người đọc dễ nhận ra đây chính là cô thôn nữ miền núi, một đoá hoa rừng Việt Bắc, thậm chí người am hiểu có thể đoán được cả họ tên cô «cung nữ» bất hạnh thời nay. Ngay cả cái kết cục đầy bi thương của nàng trong truyện không thể không làm cho ta liên tưởng đến cái chết tức tưởi đầy oan nghiệt của người «cung nữ» thời «dân chủ cộng hoà» mà cô em của nàng đă kể lại cho người chồng chưa cưới của cô…

        Người viết những ḍng này cảm thấy dường như những chữ, những câu sau đây trong truyện cũng nhắm vào một hay những đối tượng cụ thể nào đó: …“Tội ác bọn Quỷ Thần ṿi vọi/chồng chất đỉnh Muôn Năm!”...“Những cái ǵ trái phản với Tự Nhiên/dù bay có cố công vẽ tô xây đắp/thành đầu lâu Núi Tháp/rồi cũng có ngày ră tan đổ sập!/Chỉ cần nỗi oan khốc của một người đàn bà/ngây thơ chân thật/cũng đủ góp phần vào tiêu tan cả Ác Nghiệp/của một Quỷ Vương Chí Linh Chí Thánh Chí Thần!” (Khúc Dạo Đầu),… hay… «Im lặng. Bỗng nhiên họ nghe tiếng ai đó vọng lên: “Đời là sân khấu của những tấn bi hài kịch. Bốn ngàn năm lịch sử, cái người đóng kịch tài ba điệu nghệ nhất là ai các con có biết không? Nó kia ḱa! Các con không thấy sao? Khi phải cười, nó cười; lúc cần khóc, nó khóc. Cứ y như thật. Và sân khấu ngập tràn máu, nước mắt. Nó là người, chỉ là người thôi. Vậy mà ma xui quỷ khiến thế nào, ai cũng coi nó là Chí Thần, Chí Thánh?...” (Chương 5)… hay lời của Thùy Dương nói với Mai Duy Vỹ: «Bác ơi! Hồi c̣n ở Bên Này, dẫu nhiều khi sống lăng nhăng bậy bạ, cháu vẫn ăn nói thật ḷng không chút giả trá. Chị Uyên không am hiểu đời sống xă hội bằng cháu đâu. Cháu biết rơ, cái lũ tự phong ta đây là thần thánh, chẳng có đứa nào đáng được gọi là người, toàn một bọn chó má, quỷ sứ, đồ ba que xỏ lá cả!» (Chương 45).

        Đặc biệt là tác giả đă giành cả chương 41 để mô tả cuộc hội ngộ kỳ lạ như trong giấc mơ của Mai Duy Vỹ, người tử tù của cuộc CCRĐ, với «Hoàng Thượng ngự trên Ngai Rồng Đỏ» : «Muôn tâu Bệ hạ!...» - «Ta không phải là Vua, chẳng phải Tổng Thống… Ta là Đấng Chí Tôn, Chí Linh, Chí Thánh, Chí Thần, Chí… (Đức Vua kịp dừng lại, suưt nữa th́ Người nói thêm một chữ có thể làm lộ ḿnh ra – người viết ghi thêm). Ta đây! Ta là người nô bộc trung thành của muôn dân. Hăy nghe và trả lời những câu hỏi của ta!»

        Và cuộc đối thoại bắt đầu giữa Mai Duy Vỹ, người tử tù, với «Đấng Chí Tôn». Sau khi buộc tội cho Mai Duy Vỹ «Mi là thằng địa chủ phản động, bán nước hại dân… » và bị người tử tù này khéo léo, lễ phép phản bác lại, cuối cùng «Đấng Chí Tôn» đuối lư đă phải nói: «…Ta biết anh vô tội, ḷng anh trong trắng. Nhưng… ta không thể cứu anh được. Mà cho dù ta có muốn cứu anh, ban lệnh xuống th́ đă chắc ǵ quần chúng nhân dân người ta nghe cho? Cải cở thủ ti - CCRĐ là cuộc Cách mạng lớn nhất trong lịch sử đấu tranh giai cấp của dân tộc, mang tầm cỡ nhân loại… Trong cơn trời long đất lở này, sóng thần Cách mạng đang ào ào dâng cao, cuộn tới, bánh xe lịch sử đang lăn đi... Ai người bị cuốn trôi, nghiến nát âu cũng là lẽ thường t́nh. Miễn sao Cách mạng Thế giới đạt được thắng lợi cuối cùng! (Chữ đậm do người viết nhấn mạnh). Có một người phụ nữ ḷng dạ c̣n trong trắng tốt đẹp hơn anh, c̣n đáng thương, đáng quư hơn anh ở cách đây không xa lắm… Một người đàn bà! Ta đau ḷng nhắc lại: Một người đàn bà! (Ư nói bà Nguyễn Thị Năm chăng ?! – người viết ghi thêm) Anh đă nghe rơ chưa? Vậy mà ta cũng không cứu được! Mong anh thông cảm cho ta… »

        Nói xong, «Đấng Chí Tôn vụt biến. Trong mây mù c̣n vọng lại tiếng sấm rền xa xa : Ta... không… thể… cứu anh được!»…

        Đoạn trích trên đây nêu bật ư đồ sâu xa của Đảng Cộng sản khi làm CCRĐ không phải để cho «người cày có ruộng» mà chính là để chủ nghĩa Cộng sản thắng lợi trên toàn Thế giới, đồng thời nó vạch trần cái nhẫn tâm, ḷng tàn ác cũng như sự dối trá của các «lănh tụ» Cộng sản.

        Có thể nói, trong văn chương đương đại thật là hiếm thấy ở các văn nghệ sĩ trong nước ta cái thái độ dũng cảm, thẳng thắn phê phán như vậy đối với kẻ cầm quyền toàn trị.

*

        Xin nói thêm rằng, trong thư gửi bạn, tác giả cho biết cuốn tiểu thuyết “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” đă được h́nh thành cách đây 10 năm, được tác giả chỉnh sửa nhiều lần, nay coi như đă xong. V́ lường trước được rằng khó có một nhà xuất bản nào ở Việt Nam nhận in tác phẩm này mà không phải gánh chịu những rủi ro, nên tác giả đă có ư định “bỏ tủ khoá lại”. Nhưng, sau khi vượt qua nỗi sợ chính ḿnh, lại gặp được “thiện duyên”, tác giả đă quyết định cho “đứa con tinh thần” của ḿnh xuất ngoại t́m đường tự do để kể lại cho đồng bào trong và ngoài nước, cũng như cho toàn Nhân Loại biết những chuyện hăi hùng, khủng khiếp khôn cùng, những đau thương, khổ nhục ê chề nơi Địa Ngục trần gian mà người dân Việt Nam đă và đang chịu đựng.

        Cũng có thể ai đó nghĩ rằng chuyện CCRĐ xảy ra đă hơn nửa thế kỷ rồi, kể lại làm chi cho thêm đau ḷng, nên quên đi th́ hơn. C̣n tập đoàn Cộng sản cầm quyền đương thời th́ luôn miệng hô hào nhân dân “quên quá khứ, hướng tới tương lại”. Đó là một thủ đoạn bịp bợm, một chính sách ngu dân thực thụ của kẻ cầm quyền xảo quyệt. V́ một dân tộc quên quá khứ th́ không bao giờ có tương lai tốt đẹp cả!

        Vả lại, quên làm sao được khi nỗi oan khốc của hàng triệu con người không hề được giải toả, nó ngấm sâu vào tiềm thức của Dân Tộc đă trên nửa thế kỷ rồi? Quên làm sao được khi những thủ phạm chính gây ra tội ác không bị đưa ra ánh sáng, khi cái Đảng gây ra tội ác không bị vạch trần, và Đảng ấy lại không hề sám hối và thề sẽ không tái phạm nữa? Quên làm sao được khi ngày nay giữa thanh thiên bạch nhật tập đoàn Cộng sản cầm quyền vẫn ngang nhiên tiếp tục dùng những thủ đoạn tàn bạo thời CCRĐ để đối xử với nhân dân? Những vụ cướp đoạt ruộng đất, nhà cửa trắng trợn, những cuộc “đấu tố” các nhà dân chủ ở phường, ở làng, những cuộc “làm việc” của công an với tính cách sách nhiễu, nhục mạ, hành hạ đối với các nhà trí thức dân chủ bất đồng chính kiến, việc sử dụng bọn cặn bă xă hội, bọn “xă hội đen”, giống như “rẽ chuỗi” hồi “cải cách”, để cùng với công an “nhân dân” đánh đập dă man các nhà tu hành, các giáo dân, Phật tử, tín đồ Hoà Hảo, Tin Lành, Cao Đài, phá chùa, phá nhà thờ, đập nát Thánh giá, xúc phạm tượng thờ, bao vây suốt ngày đêm nhà cửa các chiến sĩ dân chủ không cho họ đi lại làm ăn, bao vây kinh tế không cho họ sinh sống b́nh thường, ném đồ dơ bẩn thối tha vào nhà người dân… tất cả những chiêu thức độc ác, đê tiện đó có khác chi thời CCRĐ? Thậm chí, lối xét xử của các toà án “nhân dân” ngày nay đối với các chiến sĩ dân chủ, đối với thanh niên, trí thức yêu nước dám lên tiếng bảo vệ chủ quyền của Tổ Quốc th́ có khác chi lối xét xử của các toà án “nhân dân đặc biệt” đối với các người bị quy là “địa chủ, cường hào” hồi “cải cách”? Vẫn cái lối buộc tội vu khống, oan uổng, vẫn cái cách xử độc đoán, độc tài của “quan” toà, cố t́nh trấn áp không cho bị cáo được nói, thậm chí công nhiên bịt miệng bị cáo trước toà, cái lối xử mà bắt bị cáo chỉ được phép cúi đầu nhận tội, không cho tranh căi, c̣n ai dám phản bác cáo trạng th́ “quan” toà hèn hạ trả thù bằng cách tăng mức án thêm nhiều năm tù! Chính v́ thế chúng ta không có quyền quên, mà phải nhớ, nhớ măi cái bài học đắng cay của thời CCRĐ đă qua. Nhớ không phải để trả thù ai mà để cho chính ḿnh bớt ngu dại, bớt ngây thơ, để khôn thêm, cảnh giác hơn, dũng cảm hơn và để không c̣n bị đánh lừa, không c̣n bị đè đầu cưỡi cổ nữa.

        Tiểu thuyết “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” chắc sẽ giúp cho những ai đọc nó sẽ không quên mà nhớ măi những ngày đen tối, khủng khiếp của thời qua để tăng thêm nghị lực và quyết tâm đấu tranh cho một tương lai tươi sáng hơn, không c̣n bóng dáng những kẻ nhân danh chủ thuyết này, chủ nghĩa nọ, tư tưởng kia để đè nén, áp chế, hành hạ, thậm chí giết hại dân lành.

        Có thể coi cuốn tiểu thuyết này là một đài tưởng niệm không ǵ phá vỡ nổi, một nén tâm hương thơm ngát của tác giả Trần Thế Nhân thắp cho vong linh các nạn nhân của chế độ Cộng sản cực quyền toàn trị ở nước ta! Đài tưởng niệm và nén tâm hương đó làm ấm ḷng người Bến Ấy cũng như Bên Này!

        Moskva, ngày 23 tháng 1 năm 2010,

        nhân dịp kỷ niệm Ngàn Năm Thăng Long

        Viết thêm vài đoạn ngày 31 tháng 5 năm 2010.

        NGUYỄN MINH CẦN

 

        GHI CHÚ:

        1/ Tại k họp thứ ba của Quốc Hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà khoá 1 (tháng 12 năm 1953), để thông qua Luật CCRĐ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dơng dạc khẳng định một lần nữa khẩu hiệu “người cày có ruộng” và tính chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp t́nh của cuộc CCRĐ. Ông nói: "Luật CCRĐ của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp t́nh, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ" (nguyên văn). Ngày nay, mọi người đều thấy rơ lời nói của “lănh tụ” Cộng sản kiêm Chủ tịch Nước khác nhau một trời một vực so với thực tế và việc làm của những người Cộng sản! Thật đúng là “nói dzậy mà không phải dzậy”!

        2/ Hồi đó, nông dân chiếm đến trên 90% dân số của nước ta.

        3/ Trong báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước Quốc Hội đă nói rơ địa chủ chỉ có 5% dân số mà chiếm phần lớn ruộng đất ở nông thôn. V́ thế, trong CCRĐ, Đảng chính thức quy định tỷ lệ địa chủ trong dân số nông thôn là 5%. Tỷ lệ 5% đó dựa trên cơ sở nào không ai biết, v́ hồi đó không hề có một cuộc điều tra nào về t́nh h́nh kinh tế, xă hội và ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam. Nhiều nhà phân tích cho rằng đó là nhận định chủ quan của các “lănh tụ” Cộng sản theo kiểu volontarisme (duy ư chí). Cái tỷ lệ 5% này đă gây ra biết bao oan khốc cho người dân, v́ các Đội Cải cách phải cố sức “đôn” nhiều người lên “thành phần địa chủ” cho đủ số tỷ lệ!

        4/ Số liệu này trích từ bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” gồm 3 tập, do Viện Kinh tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội – xem tập 2.

        5/ Theo báo cáo Cục quản lư Lao động nước ngoài của VN, năm 2008 có trên 500 ngàn người Việt đang lao động tại hơn 30 nước trên thế giới. Từ năm 2005, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Mă Lai bắt đầu nhận người Việt “xuất khẩu lao động”. Báo cáo c̣n cho biết trong vài năm tới, số lao động “xuất khẩu” có thể sẽ tăng lên đến một triệu.

        6/ Theo tài liệu năm 2008 từ Văn pḥng Kinh tế Văn hoá Đài Bắc tại Việt Nam, có khoảng 770 ngàn cô gái Việt Nam sang Đài Loan “làm… dâu”! Đáng chú ư là trong số đó, phụ nữ miền Tây Nam Bộ (vốn là vùng có cuộc sống trước năm 1975 tương đối sung túc) bị bán qua Đài Loan chiếm tỷ lệ cao nhất so với các tỉnh thành trong nước. Báo chí ở một vài nước sở tại cho biết nhiều cô bị đánh đập, bị bỏ đói, bị buộc phục vụ sinh lư cho cả gia đ́nh hoặc bị bán cho các “động” măi dâm. Một số cô không chịu được nhục nhă đă tự tử, hoặc phản ứng lại và bị đánh chết!

        7/ “Anh Lành nhưng dạ chẳng lành” là một câu vè về Tố Hữu lưu truyền trong giới văn nghệ sĩ hồi ông ta c̣n sống, ám chỉ những vụ đàn áp tàn nhẫn trí thức, văn nghệ sĩ dưới thời ông.

        8/ Ư nói thuế nông nghiệp là nguồn thu chính của chính quyền, được áp dụng hồi đó (từ năm 1951) ở nông thôn miền Bắc Việt Nam. Đây cũng là một cơn ác mộng nữa đối với nông dân, v́ thuế đánh theo lối lũy tiến, nghĩa là thu hoạch được nhiều th́ phải nộp thuế cao hơn gấp bội. Nếu không nộp đủ thuế th́ người nông dân bị đày đọa đủ cách, thậm chí bị bỏ tù. Và nếu không muốn bị ở tù th́ nông dân đành phải mang trâu ḅ ra bán, hết trâu ḅ th́ phải bán đến nữ trang, đồ vật trong nhà, thậm chí cả những đồ tế tự trên bàn thờ, v.v… để nộp thuế. Những cuộc “b́nh diện tích” và “b́nh sản lượng” nhằm tính số lượng thu hoạch để định mức thuế chủ ruộng phải nộp đều do các đảng viên Cộng sản mớm cho các cốt cán bần cố nông “phát giác” để tăng mức thuế lên và gán ép cho chủ ruộng nhắm “đánh” vào lớp người hữu sản ở nông thôn. Trong tác phẩm “Chuyện Làng Ngày Ấy” (xuất bản năm 2006), nhà văn Vơ Văn Trực đă mô tả rất rơ nét những cảnh cưỡng bức trắng trợn nông dân đóng thuế hồi đó.

        9/ Liên khu Bốn hồi đó có sáu tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng B́nh, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế. Ba tỉnh phía Nam v́ hoàn cảnh bị chiếm, hợp thành Phân khu B́nh Trị Thiên, ở trong Khu Bốn.

 

TỘI ĐỒ SỐ MỘT, THỦ PHẠM CHỦ YẾU

CỦA CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT