ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU
Đầu
xuân năm 1998, ông Vũ Kỳ, người hầu cận
của Hồ chí Minh, tung ra bài viết “ Bác Hồ với tết
Mậu Thân năm ấy “ trên một số tờ báo như
báo Văn Nghệ, Tiền Phong, Nghệ An, trong đó Vũ
Kỳ hé mở có chuyện bất thường trong chuyến
bay ban đêm ngày 23 tháng 12 năm
1967.
Bài báo có đoạn viết,” Bây giờ tối thứ bảy
, ngày 23 tháng 12 ,máy bay đưa Bác đến vùng trời Hà
nội . Lượn hai ṿng vẫn chưa hạ cánh được
v́ đèn chỉ huy trên sân bay chệch 15 độ. Đồng
chí lái giàu kinh nghiệm quyết tâm hạ cánh không theo đèn.
Rất may là an toàn. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm văn
Đồng, Lê đức Thọ ra đón Bác tại sân bay,
đưa Bác về nhà và báo cáo công việc với Bác “
Thật ra đọc đoạn
văn trên cũng không ai h́nh dung ra được một âm
mưu giết Hồ chí Minh bằng tai nạn phi cơ đă
xảy ra nhưng không thành công.
Sau này có bài nói chuyện của nhà
văn Sơn Tùng ngày 27 tháng 4 năm 2001 tại trường
Cán bộ quản lư giáo dục đào tạo, trong đó ông
Sơn Tùng kể lại chi tiết bí ẩn của chuyến
bay trên và người ta có thể đưa đến kết
luận là có âm mưu của bọn đàn em muốn dùng
tai nạn phi cơ để giết Hồ chí Minh
Nên nhớ chuyến bay chỉ có 3
người: viên phi công, ông Vũ Kỳ và Hồ chí Minh. Sơn
Tùng kể rơ mẫu đối thoại giưă ông Vũ Kỳ
và người phi công hốt hoảng khi đèn hiệu trên
sân bay chệch hướng 15 độ nên không thể đáp
bằng cách nh́n đèn hiệu. Và không thể liên lạc với
bên dưới sân bay bằng vô tuyến v́ bị cắt đứt.
Có lẽ ông Sơn Tùng có dịp nói chuyện với ông Vũ
Kỳ và được ông Vũ Kỳ kể lại chi tiết
chuyến bay. V́ ông Sơn Tùng chắc cũng không biết người
phi công ấy sau này ở đâu và chắc chắn Sơn Tùng
cũng không có cơ hội nói chuyện với Hồ chí
Minh về chuyến bay khó hiểu này. Xin đọc kỹ
bài bên dưới để thấy Sơn Tùng khéo léo tố
cáo âm mưu bọn đàn em dùng tai nạn phi cơ để
giết Hồ chí Minh.
Vũ Kỳ cũng như Sơn
Tùng đều muốn tố cáo ra âm mưu giết Hồ
chí Minh bằng tai nạn phi cơ , nhưng v́ c̣n sống
trong chế độ Cộng sản , hai ông không thể nói
toạc móng heo ra mà chỉ cung cấp chi tiết trục trặc
khó hiểu của chuyến bay và dành sự kết luận
cho người đọc. Đó là một cách viết khôn
ngoan nhằm chuyển tải bí mật động trời
trên báo chí công khai của chế độ Cộng sản
Việt Nam.
Sơn Tùng được đánh
giá là “ nhà Hồ chí Minh học “ chuyên nghiên cứu về Hồ
chí Minh và đă có nhiều mặt sách viết về Hồ
chí Minh. Nói là nghiên cứu chứ thật ra Sơn Tùng là một
người đi t́m những mẫu chuyện thuộc loại
huyền thoại để “ thần thánh hoá “ Hồ chí
Minh.
Chuyện Sơn Tùng phỏng vấn
cựu Đại tá Cao Nham nói đến chuyện Lê Duẩn
xin Hồ đánh trận Mậu Thân, nếu không thành công
th́ xin từ chức xem ra không đáng tin lắm. V́ đến
thời kỳ Mậu Thân th́ Lê Duẩn coi như tước
hết quyền lực của Hồ chí Minh rồi, bởi
vậy mới có chuyện Lê Duẩn và Lê đức Thọ tống cổ Vơ nguyên Giáp sang
Hunggary từ năm 1967 ( với lối giải thích ngoại
giao là cho Giáp đi chữa bệnh !) và đưa Hồ qua
Bắc Kinh ngồi chầu ŕa trong tết Mậu Thân. Duẩn
coi như nắm hết quyền lực rồi cho nên chuyện
xin xỏ Hồ để đánh trận Mậu Thân là chuyện
khó có thể xảy ra.
Không giết được Hồ
bằng tai nạn phi cơ năm 1967, bọn Lê Duẩn , Lê
đức Thọ quyết định dùng thuốc độc
giết Hồ năm
1969 bằng
một kịch bản khéo léo nhằm che mắt thế
gian. Đó là sự tiết lộ của các bác sĩ Hà Nội
trong một bài viết nhan đề “ Một nghiên cứu
khoa học về Hồ chí Minh” gửi đi từ Hà Nội
ra hải ngoại vài tháng trước đây, ( Xin mời vào
www.nsvietnam..com bấm
vào tên Trần viết Đại Hưng, rồi bấm vào
bài số 120) Nhửng bạo chúa bị đàn em giết vào
lúc cuối đời ) để đọc bài nghiên cứu
giá trị này). Các bác sĩ căn cứ trên những kiến
thức y khoa dể đi đến kết luận là Hồ
chí Minh bị đầu độc chết chứ không chết
v́ bệnh hoạn tuổi già.
Phải nói hai nhân vật bị
t́nh nghi tạo dựng kịch bản tai nạn phi cơ cũng
như y khoa trị bệnh để giết Hồ chí Minh
là Lê Duẩn và Lê đức Thọ v́ đă có nhiều chuyện
kể lại ghi nhận hai nhân vật này tỏ ra coi thường
và khinh bỉ Hồ. Trong khi ba nhân vật Trường
Chinh, Phạm văn Đồng và Vơ nguyên Giáp không bị coi
là nghi can trong chuyện giết Hồ.
Đớ đúng là một vở
kịch và những người trên sân khấu là những diễn
viên . Hăy nh́n Lê Duẩn khóc lóc thảm thiết như cha chết
trong đám tang của Hồ chí Minh th́ có ai ngờ rằng
chính Lê Duẩn là chính phạm trong chuyện giết Hồ
chí Minh và Lê đức Thọ là ṭng phạm.
Ngày chết của Hồ chí Minh(
2/9 / 1969) trùng với ngày quốc
khánh có thể không phải là sự ngẫu nhiên. Khi biết
bọn đàn em gian ác quyết tâm giết ḿnh bằng thuốc
độc nên Hồ chí Minh, bằng một cách nào đó,
quyết tâm chết đúng ngày 2 tháng 9 để gây sự
bẽ bàng khó xử cho bọn giết ông. Đây là cú chơi
khăm cuối đời nhắm vào những kẻ ám hại
ông. Ông đă tiên liệu đúng v́ bọn đàn em công bố sai ngày ông qua đời là 3 tháng 9
thay v́ 2 tháng 9 bởi chúng lúng túng
về việc tổ chức tang lễ cho chủ tịch
nước như ông ( quốc tang) vào ngày quốc khánh! Sau
này v́ có sự lên tiếng của nhiều nhân chứng, chế
độ Cộng sản mới “ cho “ Hồ chí Minh chết
đúng ngày 2 tháng 9 là ngày chết đích thực của ông.
Sơn Tùng nói đến 10 nỗi
đau của Hồ chí Minh do Hoàng Tùng công bố trong cuốn
sách của ông nhưng chỉ công bố được có 8
nỗi đau , dấu đi 2 nỗi đau của Hồ.
Cũng xin nói thêm là cuốn sách của Hoàng Tùng viết về
Hồ chí Minh này mới xuất bản là bị tịch thu
ngay. Thật ra muốn biết nỗi đau sâu kín của
Hồ th́ phải đọc chúc thư thống thiết của
Hồ viết ngày 14 tháng 8 năm 1969 và sau đó được
báo Con Ong ở Pháp và Thức Tỉnh ở Mỹ công bố
vào thập niên 1980. ( Xin vào www.nsvietnam.com
, bấm vào tên Trần viết
Đại Hưng rồi bấm vào bài số 114) Một cách
lư giải về chuyện Hồ chí Minh bị mất quyền
lực lúc cuối đời). Nên nhớ đây là di chúc viết
tay chứ một bản văn đánh máy cũng khó thuyết
phục thiêh hạ rằng đó là di chúc của Hổ chí
Minh. Những ai c̣n nghi ngờ xin lấy chữ viết của
di chúc này đem tới một văn pḥng kiểm tự
chuyên nghiệp để so sánh với nét chữ của di chúc
Hồ chí Minh để lại cho chế độ Hà nội
để t́m ra sự thật.
Lịch sử nghề gián điệp
cũng như văn học đă cho thấy chưa có trường
hợp nào giả chữ viết thành công. Chuyện giả
chữ viết chỉ qua mặt đuợc người
thường chứ không qua mặt được nhân viên
kiểm tự chuyên nghiệp. Chữ viết cũng như
dấu tay, không bao giờ có thể lẫn lộn người
này với người khác được. Điều đó
cho thấy di chúc Hồ chí Minh viết ngày 14/8/ 1969 là di chúc
thật. Có đọc bản di chúc này th́ mới thấy nỗi
đau sâu kín, tức tưởi cuả Hồ. Ai cũng nghĩ
rằng ông có quyền lực ghê gớm lắm nhưng ông
bị bọn đàn em tước hết quyền hành và
cho Bác sĩ Tôn thất Tùng chích thuốc độc từ từ
cho chết dần chết ṃn một cách thê thảm. Ông cũng
nói rơ Lê Duẩn và Trần quốc Hoàn đến gặp ông
và yêu cầu ông viết di chúc theo ư của chúng. Sở dĩ
ông bị hạ bệ như vậy v́ ông phạm tội
toan bắt tay với Tổng thống Ngô đ́nh Diệm ở
miền Nam năm 1963. Ngô đ́nh Diệm cũng bị giết
v́ âm mưu bắt tay này với Hồ chí Minh.
Sơn Tùng ca tụng thái độ
cầu hiền của Hồ
chí Minh khi Hồ chí Minh ôm hôn thắm
thiết cụ Huỳnh thúc Kháng
từ Trung ra Hà nội hợp tác trong chính phủ Liên Hiệp
mà Hồ là chủ tịch và nói, “ Cụ ra đây là an dân lạc
quốc” . Đó là thái độ niềm nở lúc ban đầu
gặp gỡ thế thôi chứ sau này Hồ chí Minh để
cụ Huỳnh thúc Kháng chầu
rià, ngồi chơi xơi nước và không giao công việc ǵ cụ thâể
cả. Cái ưu điểm cầu
hiền mà Sơn Tùng nêu ra để ca tụng Hồ chí
Minh chỉ là cái giả dối trong trường chính trị
của Hồ mà thôi chứ Hồ chí Minh không có tốt ḷng,
tốt bụng chi cả.
Năm 1952 bạo chúa Mao trạch Đông
của Trung Cộng và đồ tể Stalin của Liên xô gọi
người học tṛ nhỏ Hồ chí Minh sang, chỉ thị
bắt buộc là phải tiến hành cuộc cải cách ruộng
đất. Hồ chí Minh thi hành lệnh của hai quan thầy
kính yếu và cuộc cải cách ruộng đất long trời
lở đất được tiến hành, giết hại
cả trăm ngàn người dân Việt vô tội từ
tháng 12/1953 đến tháng 7/1956. Vào giai đoạn cuối
của cuộc cải cách th́ có sự cố nhân dân nổi
loạn ở Quỳnh Lưu , Nghệ Tĩnh để chống
lại. Sau dó mới có tṛ hề khóc lóc xin lỗi của Hồ
chí Minh, Đại tướng Vơ nguyên Giáp ra sân vận động
Hàng Đẫy đọc bài xin lổi nhân dân, Hồ chí
Minh đưa Giáp ra đọc lời xin lỗi với dụng
ư là lấy cái hào quang chiến thắng Điện Biên Phủ
để vuốt ve sự phẫn nộ đang dâng trào của
toàn dân v́ sự giết chóc kinh hoàng . Nước Việt
Nam từ thời lập quốc chưa có thời kỳ nào
tàn bạo, độc ác như thời kỳ này. Với cương
vị chủ tịch nước, chắc chắn bàn tay Hồ
chí Minh có nhuốm máu nạn nhân cải cách ruộng đất.
Sau này người ta c̣n t́m được trong thư khố
Nga lá thư bằng tiếng Nga Hồ chí Minh gửi cho
Stalin báo cáo về t́nh h́nh cải cách ruộng đất. Trường
Chinh là tổng bí thư trong thời kỳ cải cách ruộng
đất và cũng có bàn tay nhuốm máu nạn nhân cải
cách. Trường Chinh bị hạ bệ sau cải cách ruộng
đất nhưng sau đó được bổ làm chủ
tịch quốc hội một thời gian dài. Sau khi Tổng
bí thư Lê Duẩn qua đời, Trường Chinh lên làm Tổng
bí thư dự khuyết một thời gian và sau đó bị
Lê đức Thọ cho người đến nhà giết
chết v́ ghen tức và tranh giành quyền lực. ( theo sự
ghi nhận của nhà văn Vũ thư Hiên trong hồi kư
“ Đêm giữa ban ngày” ). Trường Chinh cũng đă chết
một cái chết đau đớn, thảm khốc y như
những nạn nhân cải cách ruộng đất do ông lănh
nhiệm vụ thi hành. Âu đó là định luật nhân quả,
vay trả của trời đất !
Chuyện Hồ chí Minh khóc lóc xin lỗi
có thể v́ hối hận đă giết nhiều người
vô tội mà cũng có thể là một biện pháp vuốt
ve của một nhà chính trị gian hùng bá đạo để
làm lắng dịu sự phẫn nộ đang trào dâng của đồng bào có thể đưa
đến sự bất ổn chính trị không hay cho chế
độ cầm quyền.
Chuyện Sơn Tùng tŕnh bày trong bài
viếr mô tả Hồ chí Minh
miễn cuỡng không muốn làm cải cách là chuyện bênh
vực cho Hồ chí Minh một cách không bằng chứng. Nếu
có ḷng thương dân sâu xa th́ không bao giờ Hồ chí Minh
nghe lời hai tên đồ tể ngoại bang Mao và Stalin để
tiến hành cuộc cải cách ruộng đất đẫm
máu có một không hai trong lịch sử giết hại hàng
trăm ngàn đồng bào ruột thịt của ḿnh. Con người
Hồ chí Minh thực sự không thánh thiện , nhân ái như
Sơn Tùng cảm nhận. Sơn Tùng rơ ràng không thành công
trong chuyện bênh vực tội ác của Hồ chí Minh
trong vụ cải cách ruộng đất. Sơn Tùng thuộc
loại viết lách “ phong thánh “ cho Hồ chí Minh. Chuyện
ǵ tốt đẹp của Hồ chí Minh th́ ca tụng tối
đa, chuyện ǵ độc ác, xấu xa không hay th́ t́m đủ lư do bào chữa
bao biện cho khuyết điểm cuả “ ông thánh “ Hồ
chí Minh, Sơn Tùng không có được phong cách viết sử
của những sử gia ở những nuớc tự do”
, họ phê phán ưu khuyết điểm của nhân vật
lịch sử một cách công minh và công bằng, không thiên vị.
Chuyện hai bài thơ Hồ chí
Minh làm lúc 5 tuổi mà Sơn Tùng lấy được từ
anh của Hồ chí Minh cũng là một cách ‘ thần thánh
hoá’ con người siêu đẳng Hồ chí Minh mà thôi.
Giết người
rồi vuốt ve, xin lỗi vốn là ngón nghề sở trường
của người Cộng sản mà Hồ chí Minh là bậc
tổ sư về ngón nghề tàn nhẫn, độc ác này.
Sơn Tùng nói đến cái đau của Hồ
chí Minh khi cố vấn Tàu đem bắn bà địa chủ
Nguyễn thị Năm, vốn là một ân nhân của kháng
chiến. Với cương vị là chủ tịch Đảng
và chủ tịch nước nhưng hầu như Hồ
chí Minh không có quyền ǵ cả. Ông không đồng ư bắn
bà Nguyễn thị Năm nhưng ông không có biện pháp nào
ngăn chận cả cho đến khi bà Nguyễn thị
Năm bị hành h́nh. Thế th́ bao nhiêu xuơng máu dân đổ
ra để giành độc lập nhưng chẳng thấy
độc lập ở đâu dù đă đánh thắng Pháp
ở Điện Biên Phủ. . Chủ tịch nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà Hồ chí Minh đành ngồi nh́n cố
vấn Tàu đem người ân nhân kháng chiến , con dân nước
Việt Nguyễn thị Năm ra bắn mà không can thiệp
được ǵ sao ?Hồ chí minh thực sự không có quyền
hay không muốn can thiệp ? Hồ
chí Minh đúng là không phải
loại người thần thánh siêu việt,quyền lực
tuyệt đối như nhà văn Sơn Tùng vẫn thêu dệt
, tưởng tượng . Ngay cả chuyện Hồ chí
Minh khóc lóc ân hận sau cải cách ruộng đất cũng
chỉ là một huyền thoại v́ không ai chứng minh Hồ
khóc ở đâu và khóc lúc nào. Có lẽ guồng máy tuyên truyền
phổ biến huyền thoại khóc này để xoa dịu
sự thù hận đau khổ của các nạn nhân cải
cách ruộng đất.
Trí trá, gian ngoan đă trở thành
bản chất của con người gian hùng Hồ chí
Minh. Những nỗi đau của Hồ chí Minh mà Hoàng Tùng
và Sơn Tùng kể ra không biết có thật hay không nữa
hay đó chỉ là những thủ đoạn chính trị
của tay ma đầu chính trị quỷ quyệt Hồ
chí Minh. Thật không thể nào biết rơ đâu là nỗi đau
thật , đâu là nỗi đau giả của con người
muôn mặt Hồ chí Minh. Ông là một kịch sĩ đại
tài nên khó ai biết rơ con người thật của ông. Cần có thêm thời gian và nhân chứng
và hy vọng chế độ Cộng sản sẽ sớm
sụp đổ ở Việt Nam để có nhiều sự
thật về Hồ chí Minh được phơi bày ra trước
ánh sáng của thế gian.
Nhà văn Sơn Tùng h́nh như c̣n
sống ở Việt Nam. Hy vọng Sơn Tùng sẽ c̣n sống
và nh́n thấy thêm những sự thật phũ phàng khác về
Hồ chí Minh chứ Hồ chí Minh không thánh thiện , siêu việt
như ông đă viết và nói nhiều trong những năm vừa
qua.
Los Angeles tháng 4 năm 2010
TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG
BUỔI NÓI
CHUYỆN CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG NGÀY 27/4/ 2001 TẠI TRƯỜNG
QUẢN LƯ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
...( đoạn này nghe không rơ
).. Ban chấp hành Trung ương
tán thành đều bị bác bỏ. Đó là tháng 10-
1930, một hội nghị cán bộ lấy dự thảo
luận cương chính trị của đồng chí Trần
Phú làm đường lối
( Hội nghị này chưa thông qua được luận
cương). Bác Hồ bị đẩy lùi vào bên trong. Năm
1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất họp
tại Ma- Cao, một lần nữa Hà huy Tập là Tổng
bí thư, xoá tư tưởng, xoá đường lối
của Nguyễn ái Quốc. Măi đến năm 1941, Bác Hồ
về nước cho đến năm 1951 , Đại hội
2 lại bị cái “ thiểu số phục tùng đa số
“ , lấy “ tư tưởng Mao “ vào điều lệ nên
đến năm 1951, cụ Hồ lại bị “ khoá “ . Bởi
v́ Hồ chủ tịch chỉ c̣n là Chủ tịch ban chấp
hành chứ không c̣n là Chủ tịch Đảng. Bác quyết
định điều ǵ cũng c̣n phải được
Ban chấp hành thông qua.
Quan điểm tư tưởng
Hồ chí Minh được mở ra từ năm 1941 khi cụ
về Pắc Bó, thành lập mặt trận Việt Minh, làm
được cách mạng tháng Tám, tuyên bố giải tán Đảng
ngày 11- 10 – 1945, giải tán Đảng Cộng sản Đông
Dương, sau này thành lập Đảng Lao Động
th́ Lào trả về Lào, Miên trả
về Miên, không c̣n liên bang ǵ ở chỗ này. Mỗi dân tộc
có quá tŕnh h́nh thành riêng của nó, c̣n viện trợ quốc
tế với nhau th́ b́nh đẳng, chứ để nước
lớn trùm lên Lào, Miên là sinh chuyện. Ngay từ lúc đó cụ
Hồ đă nh́n thấy vấn đề như thế, bây
giờ nh́n vào t́nh h́nh nào là sắc tộc, nào là tôn giáo. Cụ
Hồ không có đặt vấn đề liên bang. Miên là Miên,
Lào là Lào , ta là ta. Đến năm 1951, cụ Hồ chỉ
c̣n là Chủ tịch ban chấp hành. Ví dụ trong việc Bác
kư Hiệp Định sơ bộ 6- 3- 1946 không cần triệu
tập ban chấp hành, Bác quyết định kư. Lúc đó
Bác chỉ sửa đổi hai chữ . Một bên , Bác là “
Việt Nam độc lập “ , một bên Sainteny ( là đại diện Cộng Ḥa Pháp ) là “ Việt Nam tự
trị “ . Cuối cùng nửa đêm mùng 5 tháng 3 Bác đánh
thứ bí thư là ông Vũ đ́nh Huỳnh dậy, bảo
là đă t́m được lối thoát, đi báo ông Hoàng minh
Giám chuẩn bị để kư. Bác chọn được
một chữ mà hai bên đều chấp nhận được,
đó là “ nước Việt Nam tự do “ . Pháp rất sợ
chữ “ độc lập “ v́ cả Châu Phi họ sẽ đ̣i
độc lập, cho nên nó chỉ muốn “ Việt Nam tự
trị “ thôi. Bác bảo tự trị là không được
, độc lập th́ Pháp không chịu nên chọn “ nước
Việt Nam tự do “ ( có chính phủ riêng, có quân đội
riêng, có ngoại giao riêng, có tài chính riêng) nhưng tên nước
là “ Việt Nam tư do “. Thế là Sainteny kư ngay ngày 6 tháng 3
năm 1946. Trước t́nh h́nh ấy mà chờ triệu tập
Ban chấp hành để quyết định th́ chết,
bao giờ mới triệu tập kịp, mỗi người
một nơi.
Cho đến năm 1951 đưa
“ tư tuởng Mao “ vào điều lệ, ghi là “ Học
thuyết Mác – Lênin, chiến lược Stalin, tư tưởng
Mao trạch Đông, tác phong Hồ chí Minh” th́ Bác Hồ nói,:
“ Thôi, các ông ấy là đủ rồi,
Mác, Lênin, Stalin, Mao trạch Đông là đủ rồi, c̣n cái
tác phong “ Hồ chí Minh” th́ miễn cho.”
Chả lẽ lúc đó Bác lại nói,
“ Tôi không có tư tưởng à” . Lúc đó cũng chưa có
nói đạo đức, mà chỉ nói Bác là “ tác phong cần
kiệm liêm chính”, giản dị thế thôi, chứ Bác không
có lư luận.
Điều lệ ghi , “ Thiểu
số phục tùng đa số “ . Bác Hồ ra họp ban chấp
hành th́ suốt đời bao giờ cũng là “ thiểu số
“ , mà thiểu số phải phục tùng đa số. Đó
là ‘” cái khoá “ . Vậy là Bác Hồ chỉ được làm
những cái mà Ban chấp hành chủ trương, chứ Bác
không có chủ trương nữa. Về cải cách ruộng
đất th́ Bác Hồ không chấp nhận cái cải cách
ruộng đất kiểu này, mà Bác đă cho ra Sắc lệnh
giảm tô, giảm tức 25% từ năm 1949. Tất cả
các đồng chí lúc đó ḷng
dạ ai cũng yêu quư Bác Hồ, nhưng lại tôn trọng
ông Mao là “ nhà lư luận Trung Quốc “ , là cái mẫu của
châu Á đem bê vào Đảng như thế, và phải làm “
thổ cải “ . Bác Hồ không tán thành cải cách ruộng
đất, Bác chỉ “ trưng thu, trưng mua, hiến điền
“ chứ không chủ trương đấu tố. Lúc đó
mấy đồng chí trong bộ chính trị, đặc biệt
là đồng chí Trường Chinh( tấm ḷng đồng
chí trong sáng, là người có nhân cách lớn, phải nói thế
) nhưng quan điểm của đồng chí Trường
Chinh là “ Không phát động nhân dân th́ nông dân chịu ơn địa
chủ suốt đời, phải cho nông dân đấu tố để nông dân vùng lên” , Khi ra biểu
quyết th́ Bác Hồ chỉ có 3 phiếu, nhưng cũng là
‘ thiểu số “ . Cụ Vũ đ́nh Huỳnh kiên quyết
bảo vệ quan điểm của Bác là hiến điền,
trưng thu, trưng mua ruộng đất chia cho nông dân.
Xin nói về một bài của một
đồng chí kư tên là “ HT “ ( Hoàng Tùng ) viết về những
nỗi đau của Hồ Chủ Tịch “ , hiện nay lưu
hanh ở Hà nội cách đây mấy tháng. Đầu bài ông
đề là “ 10 nỗi đau của Hồ Chủ Tịch
“ nhưng trong bài đó ông Hoàng Tùng dấu đi 2 cái đau,
chỉ viết 8 cái thôi. Ông Hoàng Tùng là trong Ban bí thư trung ương
Đảng, là nhà lư luận , là trưởng ban tuyên huấn,
là Tổng biên tập báo Nhân Dân lâu nhất, chủ tịch
hội nhà báo. Có một thời ông cũng lầm rằng
anh Ba Duẩn mới là nhà lư luận, c̣n Bác Hồ chỉ là
yêu nước thôi. Cho đến bây giờ ông mới tỉnh
ra. Trước đây ông viết cuốn “ Từ tư duy
văn hoá truyền thống đến tư tưởng Hồ
chí Minh”. In xong th́ bị tịch thu, bị đốt hết
dù không có tuyên bố giải thích ǵ cả. Anh Hoàng Tùng có đem
đến cho tôi một cuốn. Anh nói, “ Sách của tôi bị
đốt, sách của anh tái bản lần thứ 8 là may đó.
Khi tôi ra cuốn này th́ bị thu mất rồi, c̣n giữ được
một cuốn đem cho ông .” Ông là người hiểu biết
như thế, lư luận như thế và một thời ông
cũng là ghê gớm lắm, vậy mà có lúc ông nói,:
“ Thôi, cắt cái mũ “ phớt “
đi được rồi( tức ông Giáp đứng trước
hàng quân đội cái mũ phớt).
Có thời ông chỉ thị các báo
không được đăng ảnh Đại tướng
Vơ nguyên Giáp, v́ “ trên “ chỉ thị như thế , cho nên ông
nói “ cắt cái mũ phớt đi “. Có lúc ông cũng lầm,
nhưng lúc tỉnh ngộ ra, thấy được sự
thật th́ ông kể ra 10 nỗi đau của cụ Hồ,
nhưng chỉ viết có 8 cái, c̣n 2 cái không thấy đưa
ra. Dân ta th́ không biết, nay ông kể ra th́ ông cũng ngoài 80
tuổi rồi. Ông nào cũng viết để lại, không
in được th́ cũng để lại cho các nhà nghiên
cứu lịch sử sau này làm tư liệu nghiên cứu về
những sự thật được nói ra từ trong tim
người ta.
Trong bài viết của ông Vũ
Kỳ mà ta đọc báo ta không để ư ông viết kín đáo
để đăng báo Văn Nghệ, báo Tiền phong, Báo
Nghệ An số tết 1998. Hồi
đó ông chủ trương đăng trên ba tờ báo đó.
Nội dung bài báo là : Năm 1967, Bộ chính trị mới Bác
Hồ đang chữa bệnh ở Trung Quốc về để
thông qua cuộc tổng tiến công 1968. Khi họp lần
thứ nhất Bác đă không đồng ư chủ trương
tổng tiến công nổi dậy. Bác chỉ đồng ư
tập kích chiến lược rồi rút ra ngay. Đại
tướng Vơ nguyên Giáp cũng chủ trương như vậy,
nhưng v́ thiểu số nên đành đi chữa bệnh ở
Hungary. Nhưng sắp đến tết Mậu Thân rồi
nên phải thông qua chủ trương đó để đi
vào cái tết nên phải mới Bác về.
Ông Vũ Kỳ viết bài báo như
sau:
Trên máy bay chỉ có Bác, ông Vũ Kỳ
và người lái chuyên cơ của Bác từ Trung Quốc
về . Lúc đó đă báo cho bộ đội pḥng không từ
giờ này... đến giờ này .. trên bầu trời ta từ
hướng này..phương vị này ... tuyệt đối
là không nổ súng. Thời đó là đang chiến tranh, vào
giờ đó xuất hiện máy bay của ta. Khi máy bay về
tới vùng trời Hà nội, sân bay Nội Bài khi đó là sân
bay quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái
báo cáo với anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh, Bác ngồi
sau hút thuốc.
-
Thưa
anh, tín hiệu đường băng lệch 15 độ,
bây giờ làm sao đây ạ?
-
Quan sát
lại đi –Ông Vũ Kỳ nói
-
Em là
người lái mà, lái máy bay cho Bác th́ em nh́n sai sao được-
Người lái nói.
Máy bay lượn hai ṿng không dám xuống, xăng hết
rồi, giờ quy định cũng đă hết rồi,
pḥng không họ bắn chết, mà xuống theo tín hiệu
th́ không an toàn..
Cuối cùng xuống theo
trí nhớ của người lái, chứ không xuống theo
tín hiệu của đèn hiệu, v́ trên máy bay báo đi báo lại
nhưng dưới sân bay vẫn không thay đổi, đèn
“ tín hiệu chệch “ dưới vẫn cứ để
thế, không sửa. Ṿng một ṿng và máy bay chạm đất
an toàn, thở đánh phào một cái. Bác vẫn ngồi tĩnh
tại hút thuốc, ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh.
-
An toàn
rồi , anh ơi , mừng quá- Nói to lắm nhưng Bác làm
như không nghe thấy.
Ra khỏi máy bay ( ông Vũ Kỳ tả)
th́ thấy đồng chí Lê Duẩn, Lê đức Thọ
ra đón, một lúc sau có Thủ tướng Phạm văn
Đồng. Chỉ có thế thôi, không c̣n ai đón Bác cả.
Về tới nhà th́ tết rồi,
việc đầu tiên Bác gọi điện thoại sang Bộ
quốc pḥng hỏi:
-
Tục
lệ người Việt Nam ta ngày tết hay nhớ nhà,
thế th́ các đồng chí ở nhà đă gửi quà chúc tết
cho đồng chí Vơ nguyên Giáp đang chữa bệnh ở
Hungary chưa ?
Anh em ḿnh thường trao đổi
tin này xem đă đưa ra được chưa ? Tôi cho rằng
đưa được, đến năm 98 rồi, nên đưa
ra tin này v́ sắp hết thế kỷ 20 rồi, ai hiểu
thế nào th́ hiểu, c̣n chuyện đưa ra th́ đừng
b́nh ǵ cả. Đừng đưa đăng một tờ
báo mà phải đưa tin trên ba tờ báo, v́ một tờ
sẽ bị “ đánh chết “ ngay. Đúng thế ! Khi cả
ba tờ báo đăng bài đó, th́ các ông trong Bộ chính trị
mời ông Vũ Kỳ lên hỏi.
Anh Kỳ nói, “ Tôi chỉ kể
chuyện đi của Bác trong hồi kư của tôi viết
về Bác.
Thế rồi “ họ “ cũng thôi.
Cái khung cảnh đất nước ta mấy năm nay là
thế đấy.
Bác Hồ là người cô đơn,
đây là cô đơn trên quan điểm. Tôi hiện nay đang
viết cuốn “ Bác Hồ là người cô đơn nhưng
không cô độc” Năm 2001 tôi viết cuốn này, chủ
yếu là nói quan điểm của Bác bị “ cô đơn
“ từ Quốc tế cho đến khi Bác qua đời,
quan điểm của Bác luôn ở phe thiểu số. Diễn
ra trong t́nh h́nh hiện nay là vấn đề dân tộc , vấn
đề tôn giáo. Quan điểm của Hồ chí Minh từ
đầu chí cuối là vấn đề dân tộc, chứ
không phải là đấu tranh giai cấp , chuyên chính vô sản.
Cái “ thiểu số “ ấy đi suốt cuộc đời
Bác . Đến được ngày hôm nay quan điểm đó
của Bác càng ngày càng rơ ra là rất mừng. Điều đó
nói rằng mọi khoa học nó ra đời không bao giờ
dễ dàng dù là khoa học tự nhiên hay khoa học xă hội..(
Đoạn này nghe không rơ). Nói ra như thế để thấy
Bác Hồ ngày càng sáng ra, sáng cả con người cùng quá
tŕnh Bác cô đơn. Nhưng lúc nào “ người ta “ thấy
“ lợi “ th́ “ người ta “ nói là của Bác Hồ chứ
“ người ta “ không làm theo Bác Hồ.
Khi Tổng thống Putin đến
thăm khu di tích nhà ở của Bác Hồ, mấy ông phụ
trách đưa lên một chồng sách Mác- Lênin đặt trên
giường của Bác, nói trước khi qua đời Bác
đọc những sách này. Người ta tưởng làm
như thế là trọng Bác Hồ và để ông bạn
Nga này quư Bác Hồ. Không phải đâu, ḍng di sản Bác Hồ
chất Mác- Lênin có mức độ thôi. Người thường
nói những câu của dân gian, của dân tộc, cho nên có người
bảo Bác Hồ không có lư luận. Bác toàn nói ca dao, tục
ngữ, trích Kiều, trích Chinh phụ ngâm, trích những câu
của Mạnh tử, Khổng tử, Lăo tử mà c̣n giá trị
với thời đại. Trích câu của Phật, của
Giêsu chứ không nói Mác. Khi ông
Putin đến thăm nơi Bác ở sinh thời th́ người
ta đem một chồng sách để đầu giường
Bác như thế , nhưng ông Putin ghi sổ lưu niệm
lại không nói ǵ về chuyện này mà nói:
_ Hồ chí Minh là người thầy
của dân tộc Việt Nam ( mà không nói là chủ tịch nước).
Người đă để lại trong trí nhớ nhân loại
nên rất vinh dự cho tôi hôm nay được làm quen với
cuộc sống của người.
Tại sao ông Putin lại nói “ làm
quen “ với cuộc sống của người ? V́ trên vị
trí tổng thống này nh́n tấm gương của Hồ
chí Minh lên đỉnh cao như vậy mà sống không xa cách
dân, sống giản dị. Mà chính ông nói là khôi phục lại
một nước Nga, một nước Nga yêu nước,
truyền thống văn hoá. Ta nên nhớ rằng Liên xô ngày
xưa những người ấy không phải không có tấm
ḷng, nhưng đem xoá sạch đi th́ đó là người
không có đầu óc. Đáng lẽ ra làm cách khác, ta đưa
cách khác, sách đích thực Bác đọc trước khi lâm
chung, đây lại làm một chồng sách “ toàn Lênin” . Cụ
nằm trên giường bệnh ốm th́ làm sao đọc
được các sách đó. Nếu để một cuốn
Kiều th́ không ai căi được, hoặc để một
tập thơ của Puskin, sách của L. Tônxtoi, của
Victor Hugo, Séch- pia, v́ Bác thuộc thơ Puskin, và thuộc thơ
tiếng Nga. Bác có lúc nói bây giờ c̣n thuộc Victor Hugo, tôi
là học tṛ nhỏ của Lep Tôn.. Bác Hồ của chúng ta
ngày nay bị nhiễu nhiều thứ như thế , muốn
nhận ra Bác th́ phải nghiên cứu lại các sự thực
của lịch sử. Trước đây tôi đă nói cái nôi
sinh thành của Bác, hôm nay tôi nói một số giai đoạn,
một số sự kiện có ảnh hưởng lớn đến
Bác mà không nói có hệ thống v́ thời gian cũng không có
nhiều.
Ta đọc sách, đọc lịch
sử, ta biết Bác Hồ sinh ở làng Chùa, quê ở làng
Sen, sau vào Huế học. Tôi nghiên cưú tôi thấy thế
này: nếu Bác Hồ không đi vào Huế từ thuở thiếu
thời th́ con người ấy cũng bị hạn chế
, hạn chế về mặt văn hoá cội nguồn và
thanh lịch ở đất kinh đô.
Huế là trung tâm văn hoá của
cả nước ta vào thế kỷ 19, Bác Hồ vào Huế
cuối thế kỷ 19, lúc đó Huế là trung tâm của
cả nước. Ở Nam bộ cụ Phan thanh Giản đi
thi phải ra Huế, c̣n khúc ruột miền Trung từ B́nh
Thuận trở ra đến Quảng Nam, thi Hương là
phải ra Huế. Đầu thế kỷ 20 mới có trường
thi Hương ở B́nh Định. Ở Bắc th́ Lạng
Sơn trở vào cũng phải vào Huế để thi Hội.
Diện mạo các nhà trí thức, các nhân sĩ ( xin nói thực
có một thời kỳ cực đoan, đă nói “ quan “ là
phong kiến, quan là xấu. Ở Chí linh tôi nói thế mà suưt
bị bắt).
Nói các quan “ xấu “ như thế
sao lại truyền thống nối dơi văn hoá Việt
Nam mấy ngh́n năm được! ? Cố nông th́ làm sao
giữ được văn hoá vật chất của dân
tộc? Chúng ta vô cùng quư trọng cố nông, người thợ
nhưng nói đến diện mạo văn hoá là phải nói
đến trí thức. Các gia đ́nh khoa bảng, gia đ́nh
nhà quan truyền từ đời này qua đời khác . Các
ông quan tham nhũng th́ cá biệt thôi. Tất cả tham nhũng
th́ c̣n ǵ là văn hoá Việt Nam, bản lĩnh, bản sắc
Việt Nam. Không có Nguyễn Trăi th́ ta làm ǵ có văn hoá thế
kỷ 17, thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 cũng vậy.
Ở nhà cái ông giàu nhất nước , mà xưa nay chưa
có nhà nào mà cha con đồng triều là tể tướng
như nhà Nguyễn Du ( thân sinh Nguyễn Du là Xuân quận công
Nguyễn Nghiễm , làm tể tướng thời Lê mạt.
Anh Nguyễn Du là Toản quận công Nguyễn Khản, làm
tới Tham tụng, Thái bảo trong triều ). . Bác Hồ của
chúng ta chính là con người nối tiếp những cái văn
hoá cội nguồn này chứ.
Thế kỷ 19, Bác Hồ sinh
ra năm 1891, tôi nói đây là nói nghiên cưú từ gốc. Bây
giờ nói Bác sinh 1890, nhưng tôi nghiên cứu tử vi của
Bác th́ Bác sinh năm 1891. Bác đi làm cách mạng, Bác khai năm
sinh là 1890, nhiều người chúng ta khi đi học, đi
hoạt động cũng khai bớt hoặc thêm tuổi
như thế. Bác sinh năm 1891, năm 1895 Bác vào Huế, tuổi
ta là 5 tuổi, tuổi bắt đầu có trí nhớ, tuổi
mà người ta dễ nhớ nhất là tuổi này, tuổi
lên 5 đến lên mười. Bác 5 tuổi đi theo cha mẹ
vào Huế. ông Nguyễn sinh Khiêm có đưa cho tôi cuốn
“ Tất Đạt tự ngôn “ là vào tháng 6 năm 1950. Sau đó
ít tháng th́ cụ qua đời. Trong “ Tất Đạt tự
ngôn “ th́ cụ có ghi ba bài thơ về thời niên thiếu
của em trai ḿnh, tức Bác Hồ.
Bài
thơ này cũng hấp dẫn tôi. Thời đó tôi là một
anh thanh niên học sinh mới đi hoạt động Đoàn
thanh niên cứu quốc ( chưa phải là Đoàn thanh niên
Hồ chí Minh ). Cụ đưa cho tôi đọc bài thơ
hay quá đi, thấy tôi ngỡ ngàng không tin th́ cụ nói thế
này:
_ Cháu ạ, bây giờ nhớ ǵ ghi
nấy. Bọn Tây nó “ thuốc” bác bằng rượu khi bác
đi tù. Bác vào nhà tù năm 1914, sau bác chống lại th́ nó đày
vào cực Nam Trung Bộ. Bác vốn không phải là người
nghiện rượu, nhưng sau này th́ không có rượu là
bác không chịu được và trí nhớ của bác mất
dần đi. Bạn học của bác đi thi vào năm
1904 đỗ cử nhân, đó là ông Đào như Tuyên, con
trai cụ Đào Tấn. Anh em bác học vào loại giỏi
nhưng không đi thi. Bây giờ bác không c̣n được
như xưa, nhớ cái ǵ th́ bác ghi vào đây, chứ không có
hệ thống. Cháu là người có tấm ḷng muốn t́m
hiểu gia cảnh nhà bác th́ bác đưa cho cháu cuốn ghi
chép này, thấy có ích th́ cháu dùng, khai thác, không dùng nữa th́ đốt,
đừng giao...cho ai, v́ trong này bác ghi nhiều cái không tiện
nói ra. Trong đó bác có ghi họ Hồ là thế nào..về họ
Nguyễn là thế nào..v́ ngày chú Thành mở nước độc
lập th́ là Hồ chí Minh, chứ không lấy họ Nguyễn
là v́ sao ? Trong cuốn này cũng nêu ra bài thơ đó là: Trên
đèo Ngang hai bài thơ 1895, c̣n bài nữa là “ Ba ông phỗng
“ năm 1903.
Cụ Khiêm kể lại, “ Hôm đó
cả nhà bác chuẩn bị đi vào Huế, bác ngủ với
bà ngoại, em Thành ngủ với mẹ, c̣n chị Thanh th́
ngủ với d́ An. Đêm đêm bác thấy bà khóc, ngày bà
vui, đêm nào cũng nghe thấy bà khóc. Sáng hôm sau thấy bà
đi xin mo cau cả làng ( xưa dân ta lấy mo cau làm gàu múc nước). Bác với
chú Thành lấy mo cau cắt thành cái thuyền đem thả
ao trước nhà, bà không cho, bà bảo đây là dép của các
cháu, cha mẹ cháu để đi vào kinh đô, thời đó
chưa có nhiều giày dép như bây giờ. Bác thấy bà ngoại
đo chân cha mẹ, đo chân cho 2 anh em bác.
( Bây giờ mới thấy các cụ
ta ngày ta ngày xưa đi t́m cái chữ ở kinh đô Huế,
đi trên những phương tiện như vậy, không
dép săm bô như ta bây giờ, ngày ấy có đôi dép da ḅ đă
quư rồi )
Bác hỏi : “ Mẹ, tại sao đêm
bà khóc ?”
Về sau mới biết tâm sự
bà thế này, lúc đầu cha mẹ bác tưởng bà khóc
v́ bán ruộng cho con vào kinh đô học, bán mất 5 sào. Bà
ngoại đêm nằm buồn mà khóc, không phải tiếc
v́ bán 5 sào ruộng cho con rễ vào kinh đô học , v́ chữ
nó sẽ đẻ ra ruộng, chứ ruộng không đẻ
ra chữ . C̣n cái ruộng bán đi đánh bạc th́ mới
mất, nên không có ǵ mà khóc cả . Khóc là v́ bà không có con trai. Ông
tú th́ mất rồi, con rễ coi như con trai, con gái là chỗ
dựa, bây giờ cả nhà kéo đi vào Huế, bà ở nhà
cô đơn một ḿnh, hai cháu trai và cháu gái cũng đi.
V́ thế nên cha mẹ bác chỉ cho hai anh em đi vào Huế,
c̣n chị Thanh phải ở lại quê với bà, để
sớm hôm có bà có cháu.
Như vậy cha mẹ bác quyết
định vào Huế không phải là để làm ăn
sinh sống để trở thành người Huế đâu,
mà muốn cho anh em bác vào Huế để học. Cha bác vào
đó để làm bạn với các nhà khoa bảng ở
kinh đô. Các ông qua thời đó đều là tiến sĩ,
là hoàng giáp , là đ́nh nguyên, ít ra là cử nhân. Đúng là cha bác
vào trong Huế đă tạo ra được một cái “
chiếu văn “, các ông quan trong triều thường đến
đó b́nh văn, b́nh thơ cùng với các cụ đồ ở
kinh đô.
Ông Khiêm kể tiếp, “ Khi đi
dép mo cau, một lúc là rách phải thay cái khác, c̣n chú Thành th́ được
cha cơng trên lưng. Trên cao chú quan sát hỏi hết chuyện
này đến chuyện khác: núi này là núi ǵ mà cao thế? Bà
ngoại hay ví “ trèo truông mới biết truông cao “ là nghĩa
nó ra làm sao? Có đuợc bao nhiêu nước để gọi
là biển? Chú ấy hỏi nhiều chuyện. C̣n bác th́ chân
nó đau, đi mấy ngày liền, có khi bác khóc. Mẹ bác lại
động viên, “ Em nó vui vẻ hỏi chuyện này chuyện
khác. Con là anh mà chẳng vui chi cả “ Chú Thành đuợc
cha cơng, đến đường bằng th́ chạy tung tăng,
hỏi nhiều thứ, c̣n lạ mắt cho nên mẹ bác nói
em thông minh hơn anh.
Rồi cụ
Khiêm nói, “ Mà chú ấy thông minh hơn bác thật “
Lúc đến chân đèo Ngang, đường
lúc đó có đoạn sát với biển, không như đường
ô tô bây giờ. Đến chân đèo Ngang, có băi cỏ rất
bằng, mẹ bác mới đặt gánh xuống, cha bác xếp
ô lại bảo : chỗ này phẳng phiu, nghĩ lại đây
ăn cơm nắm, để rồi leo đèo. Bác ngồi
xuống ôm chân rộp . C̣n chú Thành th́ nhảy chơi, mới
hỏi cha :
_ Thưa cha, cái ǵ ở trên kia mà đỏ,
lại ngoằn ngoèo như rưá?
Cha bác nói , “ Đó là con đường
ṃn vắt qua đèo, tí nữa ta phải đi leo trèo lên đó,
lên cái đường ṃn đó.
Thế rồi chú Thành mới ứng
khẩu luôn một bài thơ. Sau này bác ghi lại trong cuốn
sách “ Tất Đạt tự ngôn “ này.
“ Núi cơng con đường ṃn
Cha th́ cơng theo con
Núi nằm ́ một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Đường bám ĺ lưng
núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn ḥn núi
Con đường lười
hơn con “
Nói về văn thơ, tôi là anh
thanh niên nam 1950 tiếp xúc với bài thơ này trong cuốn
“ Tất Đạt tự ngôn “ của người anh ruột
Bác Hồ viết lúc 5 tuổi
th́ tôi hơi sững sờ.
Ông Khiêm nói tiếp, “ Lúc đó cha bác
mới mở cái ví vải lấy lá số tử vi của
con ra xem, bác mới biết cha đă lấy tử vi cho các
con. Cha bác nói với mẹ, “ Với thiên tư này, thằng
bé sẽ khó nuôi, có lẽ, quan Đào Tấn với ông ngoại
đă nói như thế không nhầm.”
Rồi bác
Khiêm lại nói, , “ Lúc đó bác chẳng có bụng dạ ǵ,
v́ chân phỏng rộp đau. Ăn cơm nắm uống nước
đựng trong quả bầu khô xong, cả nhà lại leo
núi, chú Thành lại được cha cơng trên lưng. Anh em bác
ở làng Sen chỉ biết ao, biết sông, biết hồ,
biết núi, chứ biển chưa thấy. Hôm đó, đến
đỉnh đèo th́ dừng lại nghỉ, bác lại ngồi
ôm chân. Chú Thành lại chạy nhảy rồi nói:
_ Cha ơi, cái ao ở đây sao lớn
thế?
Cha bác nói:
_ Không phải ao đâu con, đó là
biển đấy chứ
Lúc đó, đứng
trên đèo Ngang là nh́n thấy biển, ở đây th́ xuống
là đến Ṛn , tức Cảnh Dương của Quảng
B́nh. Lần đầu tiên thấy biển lại cứ gọi
là ao, cha bác phải nói là biển. Chú ấy lại nói:
_ Cha ơi, tại sao ḅ nó lại lội
trên biển?
Cha bác cười bảo:
-
Không
phải ḅ đâu con ơi, đó là cánh buồm, thuyền nó
chạy trên biển đó.
Chú ấy ứng khẩu đọc
bài thơ:
“ Biển là ao lớn
Thuyển là con ḅ
Ḅ ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em nh́n thấy trước
Anh trông thấy sau
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn”
Cụ Khiêm nói một câu tâm sự,
mà cũng là tâm trạng, ‘ Cháu ạ, con ngướ ta có số
mệnh. Số mệnh có khi nó xuất ra thành ư. Cái thông thường
, cái lẽ thường anh là phải nh́n thấy trước v́ anh ra đời, khôn hơn. Nhưng
đây lại nói là, “ Em nh́n thấy trước anh, anh trông
thấy sau”. Cái khẩu khí đó cũng là cái ứng mệnh.
Bác là anh, bác đau chân, bác không c̣n nh́n những ǵ ở xung
quanh, nhưng chú ấy quan sát, chú ấy lại ứng khẩu
được cái đó, “ Ta lớn mau mau, vượt qua
ao lớn “ . Cái khẩu khí ấy là cái “ ứng mệnh “ nên
suốt cuộc đời chú Thành phải đi hết nơi
này nơi khác, năm châu bốn biển, c̣n bác chả thấy
ǵ, bác cứ yên vị, bác sống trong xó quê như thế này!
..
Cụ Khiêm nói với tôi điều
đó năm 1950, sau này tôi công bố hai bài thơ ấy trên
báo Văn Nghệ số tết năm 1980, lúc đó là chuẩn
bị đại hội 5. Sách “ Búp sen xanh “ chưa ra, tôi nói
đưa hai bài này và viết
lại cái đoạn gặp cụ Nguyễn sinh Khiêm. Khi đó
nhà văn Nguyễn văn Bổng là Tổng biên tập báo
Văn Nghệ trước khi đăng mới đến
hỏi tôi:
_ Có
chính xác không anh? Mới 5 tuổi mà làm 2 bài thơ, trẻ
con th́ trẻ con thật nhưng rất trí tuệ
Tôi nói, : “ Anh cứ đăng đi,
có chi tôi chịu trách nhiệm.
Đến khi báo ra th́ người
đến gặp tôi là bác Khương hữu Dụng, nhà
thơ giỏi và nổi tiếng
về thơ Đường. Bác năm nay 95 tuổi, đang
sống.( Tôi cho rằng ở Quảng Nam ta có bác Khương
hữu Dụng, một nhân cách nhà thơ, nhà báo, bác dạy
học suốt thời tuổi trẻ, sau cách mạng tháng
8, bác mới thôi dạy học. Xưa bác viết báo Tiếng
Dân của cụ Huỳnh thúc Kháng). Cụ hỏi tôi:
_ Tôi mới được đọc
hai bài thơ của Bác Hồ thời thơ ấu hay quá mà
ḿnh cũng nghi quá, ông có thêm chữ nào vào không đây ?
_ Chết , ai lại làm việc này,
thưa bác – Tôi nói
( Ta phạm
sai lầm là khi viết cái điển h́nh chăn nuôi để
phong anh hùng, chiến sĩ thi đua th́ thường mượn
lợn hàng xóm thả vào chuồng, mời nhà báo đến,
toàn “ tạo “ thêm thành tích ba lăng nhăng. C̣n đây là viết
về vĩ nhân, đây là viết về Bác Hồ, ḿnh thêm
là ḿnh có tội. C̣n nếu của tôi th́ tôi thành tác giả,
việc ǵ là nói của cụ Hồ)
Cụ Dụng lại cười
tươi nói, “ Đọc xong ḿnh sợ quá . Trần đăng
Khoa nó giỏi nhưng thời nay nó khác, nó có thông tin báo chí
tuyên truyền nhanh, có hệ thống, thời đó th́ không
có mấy, thời đó làm ǵ có báo chí như vậy. Thông
minh như Trần đăng Khoa tưởng tượng
“ cành lá dưà như lược cài trên trời”, “ quả
na chín là quả na mở mắt “ , “ gà gọi mặt trời
lên “..Bên này hai bài thơ Bác hồi nhỏ mà tầm tư tưởng
lớn quá .”
Sau này đưa vào cuốn, “ Búp
sen xanh “ th́ Thủ tướng Phạm văn Đồng có
mời tôi lên làm việc. Thủ tướng có hỏi về
hai bài thơ. Thủ tướng mời tôi ngày 10- 4- 1982. Lúc
đó đă kết thúc Đại hội 5. Bác Phạm văn
Đồng nói như thế này:
“ Tôi có mấy điều để
nói với đồng chí, có những điều Bác Hồ
kể với tôi, v́ tôi sống có một ḿnh. Thỉnh thoảng
ăn cơm với Bác, sau khi ăn xong hai người thường
ngồi bên ao cá kể chuyện thời nhỏ của Bác.
Nhưng lần này tôi thấy đồng chí lại biết
khai thác được những chuyện như thế này. Tôi không hiểu tại sao đồng
chí lại biết những chuyện như thế này? Đồng
chí cũng không phải là thư kư của Bác. Đồng
chí là nhà báo , thỉnh thoảng có đi với Bác nhưng
chắc không bao giờ Bác kể chuyện này, trong đó có
trường hợp cô Út Huệ là người tiễn Bác
xuống tàu. Trong sách có ba bài thơ, bài thơ thứ ba không
nói, c̣n bài thơ Đèo Ngang tại sao đồng chí lại
t́m được?
Bác Đồng mời tôi lên th́
bao giờ cũng có cái “ thú thân”.
Được khen th́ tốt nhưng khi bị hỏi th́ sẵn
sàng có cái “ thú thân” mà ch́a ra. Tôi mang cả cuốn “ Tất Đạt
tự ngôn “ đi theo.
Tôi nói, “ Cụ Khiêm giao cho tôi tháng
6- 1950 th́ tháng 9 cụ qua đời. Cụ có ghi trong sách hai
bài thơ này. Tôi ch́a ra th́ Bác Đồng bảo tôi, “ Đồng
chí đă lấy tư liệu chu đáo như thế này,
v́ không ai hiểu Bác Hồ bằng anh chị em ruột của
Bác. Đồng chí lạo có cái duyên may được gặp
các anh chị Bác Hồ, lại đuợc các cụ tin cậy
giao cho cuốn sách ghi chép của cụ cuối đời
và kể lại thế này. Các cụ nhà nho khi về già th́
kỹ tính lắm, không dễ nói ra đâu.
Sau tôi phải nói thật với
bác Đồng: ông Bùi xuân Phong xưa là bạn của cụ
Hoàng xuân Hành ( chú ruột mẹ Bác Hồ), cùng đi với
cụ Hành, không phải tự nhiên các cụ kể cho biết
đâu. Cụ Bùi xuân Phong hy sinh ở Nhă Nam thời cụ
Hoàng hoa Thám, nay vẫn chưa t́m thấy mộ cụ Tú Bùi.
Nói điều đó để bác Đồng tin được
Bác Đồng lại nói :
“ Tôi hỏi đồng chí như
thế v́ đọc trong cuốn sách có nhiều điều
xúc động, nhưng có hai bài thơ ở Đèo Ngang làm
tôi cứ bâng khuâng. Giá mà biết trước cái này th́ Bác c̣n sống mà nhắc lại
chắc lư thú lắm. Nhưng Bác “ đi mất rồi “ ! Có
khi nào mà cái tuổi lên 5 lại cấu trúc được bài
thơ ngắn, cấu trúc ấy lại tạo ra được
cái “ tĩnh” với cái “ động “ , tư duy này là tư
duy “ dịch lư”.
Bác Đồng là người giỏi
dịch lư, con quan mà. Các đồng chí để ư ngày bác Đồng
mất, họ chiếu cái phim về Thủ tướng Phạm
văn Đồng, có đoạn quay cái nhà thờ của
gia đ́nh bác Đồng ở Quảng Ngăi, th́ người
ta quay xa xa, không quay cận cảnh bàn thờ v́ toàn là những
ông đội mũ cánh chuồn. Gia đ́nh bác Đồng
nhiều người làm quan, như thế “ họ “ sợ
mất lập trường nên không dám quay rơ. Bác Đồng
là con quan, học giỏi, học hành kỹ lưỡng nên
mới thấu hiểu được cái “ động “, cái
“ tĩnh “ trong bài thơ của Bác Hồ.
Rơ ràng cái ǵ thuộc về thiên
nhiên tạo đều “ tĩnh “, cái ǵ thuộc về con
người là “ động “ “ Núi cơng con đường ṃn”
, “ Cha th́ cơng theo con”, “ Đường bám ĺ lưng núi “ là tĩnh,
“ Con tập chạy lon ton “ là động. Thơ có thể
là chưa hay nhưng nó có cái thần, cái lời ngộ nghĩnh
của đứa trẻ, điều đó dễ hiểu,
đó là vấn đề tư tưởng, tầm nh́n này
hơi lạ. Rồi c̣n bài lên đỉnh đèo, tại
sao biển như thế vẫn gọi là cái ao, mặc dù
cha nói đó là biển mà vẫn cứ , “ Ta lớn mau mau. Vượt
qua ao lớn “ . Thế th́ có lư trí ǵ không? Không chỉ là xúc cảm
xuất thần của một đứa bé. Sau này Bác đi
năm châu bốn biển: lịch sử nay đă cho thấy
Bác Hồ đi bốn biển th́ thấy, năm châu th́ chưa
thấy. Đến bây giờ không biết Bác có thăm Úc
không? Ta thường nói Bác Hồ đi năm châu bốn biển,
theo lịch sử ghi th́ Bác mới chỉ đến bốn
châu thôi.
Tôi nói : “ Bác Hồ đến Sitnây
( Sidney) tháng 11- 1913, đi với cụ Đào nhật Vinh,
hiện nay cụ Vinh ở số nhà số 13 đường
Nguyễn an Ninh , gần chợ Bến Thành.
Khi tôi nói với bác Đồng,
năm đó cụ Đào nhật Vinh đang sống. Sau giải
phóng miền Nam, tôi vào Sài g̣n sưu tầm tài liệu về
Bác Hồ th́ Dược sư Hồ thị Tường Vân,
con gái cụ Hồ tá Bang, giới thiệu gặp cụ Đào
nhật Vinh, người ở huyện Trực Ninh, Nam Định,
xuống tàu năm 1912 ( Bác Hồ năm 1911), cụ Đào
nhật Vinh gặp Bác Hồ ở tận Nam Mỹ,
Achentina, sau này gặp Bác ở Đaka, Sêơnêgan, đến đầu
năm 1917 gặp lại Nguyễn tất Thành cuối Đại
chiến thứ nhất. V́ sau đó ông không đi tàu nữa
mà lên Bocđô lấy vợ đầm. Sau này ông lại lấy
một bà Việt Nam. Nếu cụ Vinh kể không th́ không ổn,
phải kể thêm số ảnh cụ chụp chung với
Bác Hồ năm 1946 ở Paris khi Bác là thượng khách thăm
chính thức nước Pháp . Lúc đó cụ đang ở
Pháp ở Hotel ở Bócđô.
Gặp cụ Vinh tôi mới cung cấp
một số tư liệu với bác Đồng. Bởi
v́ viết về Bác Hồ, chúng ta chẳng có mấy ai nghiên
cứu về Bác, đi đến tận nơi tận chốn
Bác sống, hoạt động để t́m ṭi tra cứu
cả. Báo chí nước ngoài họ viết thế nào th́
ta chép lại, Đảng ta chưa bao giờ bỏ ra một
số tiền cung cấp cho những người có tâm huyết
thật sự đi lần theo dấu vết Bác. Đă có ông
nhà báo Mạnh Việt ở báo Tiền Phong thành tâm xung phong
đi, nhà nước chỉ cấp cho một cái giấy
phép thôi, c̣n đi đến đâu ông nhờ đồng bào,
mà đến nay vẫn chưa có chuyến đi nào cả.
Ngay cả việc quan hệ giữa nhà nước ta và nhà
nước khác cũng chỉ trao đổi công văn đi
lại, cũng chưa có người đến. Chỉ đến
khi anh Hồng Hà lúc đó là phóng viên báo Nhân Dân đi sang Hội
nghị Paris với Lê đức Thọ, nhân tiện ở
đó nghiên cưú về Bác ở Pháp, rồi sang Anh, thế
thôi, chứ thực sự để hẳn người
nghiên cứu về Bác Hồ th́ không có. V́ vậy nó cứ
thất thoát đi. Bên ngoài người ta cứ tiếp tục
gửi về rất nhiều tư liệu.
Hai bài thơ ấy giúp bác Đồng
hiểu thêm về Bác Hồ, về sự manh nha của một
thiên tài. Thiên tài không phải tự nhiên xuất hiện, mà
cả một quá tŕnh, mà đây là giai đoạn manh nha. Cuối
buổi gặp bác Đồng mới nói về ư định
của bác.
-
Tôi
nghe dồng chí bị thương ở mặt trận về,
khó khăn lắm. Anh em xuống nhà thăm nói đồng
chí ở chật chội lắm. Tôi có trao đổi với
anh em để lo cho đồng chí một chỗ ở, để
đồng chí đỡ vất vả.
-
Thưa
Thủ tướng, cám ơn Thủ tướng. Bây giờ
Thủ tướng cho tôi căn hộ. Thủ tướng
mang tiếng, tôi cũng mang tiếng. Bởi lẽ tôi trẻ
trung làm được công việc đột xuất mà Thủ
tướng thưởng th́ không ai nói. Thủ tướng
là người lănh trọng trách lo cho cả đất nước.
Một người đột xuất như Đặng
thái Sơn chẳng hạn, làm cái việc tŕnh diễn dương
cầm được giải thưởng Sôpanh( Chopin). Người
Châu Á đầu tiên được giải th́ Thủ tướng
cho một căn hộ , để Đặng thái Sơn đón
bố là Đặng đ́nh Hưng về ở. Anh Hưng
bị cái án “ Nhân Văn giai phẩm “, bây giờ khổ quá,
nay con ông làm được cái việc vinh quanh đó. Thủ
tướng cho một căn nhà . Ai cũng quư cả , quư tấm
ḷng của Thủ tướng, quư ḷng hiếu thảo của
người con đối với cha, như thế là đẹp.
-
Tôi là người tham gia cách mạng
sớm, ra đi vào chiến trường B, trả lại
căn hộ tiện nghi ở số nhà 58 Nam Đồng
cho pḥng quản lư nhà đất quận Đống Đa.
Nay trở về đ̣i không được. Thuê một chỗ
khác cũng không được. Tôi biết cái nhà đó.. th́
to tiền lắm. Bây giờ họ bán đồ điện.
Nhà tôi đ̣i không được, giờ tôi lại lên đây,
tôi không xin ( nhà ) mà Thủ tướng cho một xuất ở
th́ tôi mang tiếng. Thủ tướng cũng mang tiếng.
Thủ tướng Phạm văn Đồng th́ mang tiếng
“ ban phát “ cho cá nhân người này, người kia, c̣n tôi
th́ mang tiếng: tưởng ông này thế nào, hoá ra đi
nghiên cứu cụ Hồ, viết sách cụ Hồ xong rồi
“ để xin nhà “ . Dân ta thường nói, “ Ăn mày nhà
quan không sang hơn ăn mày ở chợ”. Tôi cũng nói thực
ḷng với bác Đồng như thế nên bác rất quư. (
Nay thấy anh Trần tam Giáp , thư kư bác Đồng viết
bài để đăng báo Nhân Dân vào ngày giỗ năm cụ
“ ra đi “ , anh có nhắc đến chi tiết này).
-
Như thế là đến như
bác Phạm văn Đồng ở gần Bác , một trong
những người gần gũi nhất của Bác Hồ
như bác Vơ nguyên Giáp, bác Trường Chinh.. Xưa người
ta nói “ tứ trụ “ là vậy. Nhưng thời niên thiếu
của Bác th́ không có điều kiện để t́m hiểu
mà biết được. C̣n tôi có duyên may trong quá tŕnh đi
khai thác để sau này viết, trước chỉ nghĩ
ghi lại để cung cấp cho đời sau, nhưng
sau khi đă có cái ‘ vốn “ mới nghĩ đến chuyện
“ đi buôn xa buôn gần “, viết cái này cái khác.
-
Khi cụ Hồ về tới Pác-Bó
th́ nói với đồng chí Nguyễn lương Bằng là
t́m cho báo Thanh Nghị. Thế mà sau đại hội 3 có người
nói, “ có triết học Mác- Lênin “ không cần bộ tư
pháp, bỏ bộ tư pháp. Nói rồi khôi phục lại bộ
tư pháp đó chứ. Cái ǵ cụ Hồ đề ra th́ bị
xoá gần hết. Nhà trí thức lớn không bao giờ kêu
ca ǵ. C̣n có người nói ông Nguyễn khắc Viện là
tay sai của Pháp về, ai như ông Viện ? Hôm xét giải
thưởng cho ông Trần đức Thảo, cả hội
Khoa Học không ai đọc được cái ǵ của ông
Thảo v́ ông viết bằng tiếng Pháp. Bấy giờ
giaó sư Phan Ngọc đọc bài giải tŕnh về thầy
Đào duy Anh, Giáo sư Trần đức Thảo. Khi đọc
xong, cả hội trường đứng dậy , nhiều
lănh đạo bực ḿnh. Bài diễn văn có đoạn
“ Việc nhà nước trao giải thưởng Hồ chí
Minh cho Giaó sư Trần đức Thảo , nó cũng làm
sang cho giải thưởng ấy, nếu c̣n người đứng
lên nhận th́ cái giải thưởng ấy thêm giá trị,
nhưng tôi thấy một nỗi rằng: Có giải thưởng,
vậy ai là người nhận đây? Không có ai cả, v́ ông
đă nằm dưới mồ rồi. Nó gần giống
như thế kỷ 15, khi Đức Lê thánh Tông khôi phục
cho Nguyễn Trăi, làm cái lễ trở về Nhị Khê gần
Quán Gánh để minh oan cho Nguyễn Trăi trước dân làng.
Khi ông Thượng thư bộ Lễ đọc xong chiếu
giải oan th́ nói thêm một câu rằng, “ Minh oan được
cho họ Nguyễn, nỗi oan khốc này đối với
quan Hành Khiển đă một thời “ Lê Lợi vi quân, Nguyễn
Trăi vi thần “ , bây giờ quay mặt lại th́ không c̣n ai
nhận cái chiếu vua giải oan này nữa v́ tru di tam tộc
mất rồi”. Mong sao lịch sử đừng bao giờ
lập lại! Nỗi đau lịch sử nó ghê gớm thế.
Suưt nữa th́ ta phạm sai lầm với ông Tổng tư
lệnh của một quân đội dẹp xong mấy đế
quốc siêu cường. Trước đó đă chuẩn
bị một cái đảo để đi đầy ! Việc
đó suưt diễn ra trong thập niên 60. May sao lúc đó cụ
Hồ c̣n sống, cụ nói, “ Tôi c̣n sống, không ai thay được
Tổng tư lệnh Vơ nguyên Giáp !” Họ gán cho ông Giáp là “
trùm xét lại “ . Việc động trời này nhiều người
đă biết.
-
Đọc 10 nỗi đau của
Bác Hồ, trong đó đồng chí Hoàng Tùng viết về
cải cách ruộng đất đă bắn bà Nguyễn thị
Năm như thế nào và quan điểm cụ Hồ về
chuyện này, v́ cụ Hồ không chủ trương cải
cách ruộng đất bằng lối đó. Mỗi nước
có cái đặc thù th́ đánh như thế nào, chứ không
thể đánh như Tàu được . V́ khi cách mạng
mới thành công cả trung đoàn ăn cơm trong nhà bà
Nguyễn thị Năm. Con trai bà là chỉ huy trung đoàn.
Thế mà cán bộ ta đi Trung quốc mang “ tư tưởng
Mao “ về , chủ trương bắn ngay bà Nguyễn thị
Năm. Bác Hồ nói : cách mạng này nó bạc bẽo quá,
gia đ́nh bà đă bỏ thóc gạo nuôi hàng trung đoàn từ
thời cách mạng c̣n hàn vi. Nay cách mạng đă lớn mạnh
mà bắn người ta th́ bạc bẽo quá. Bát cơm Xiếu
mẫu ở đâu? Sau đó c̣n nghe cố vấn nước
bạn lập ra một danh sách 200 cán bộ cấp cao trong
quân đội, phần lớn trí thức tiểu tư sản,
trong đó có hàng tướng lănh để chỉnh đốn
tổ chức.
-
Bác Hồ bảo phải đốt
ngay. Đem xử trí chừng này cán bộ th́ c̣n đâu để
lên Điện Biên bây giờ. Lúc đó Cải cách ruộng đất
như thế, đưa ra xử chừng ấy cán bộ
trong quân đội th́ trời đất nào ? Nói như thế
để ta thấy nỗi đau của Bác Hồ. Ta phải
thấy trong cái bể sản xuất nhỏ, trong một nước
chủ yếu là sản xuất nông nghiệp th́ nó dễ cực
đoan lắm. Không lấy cái văn hoá dân tộc, tinh thần
dân tộc làm nhăn quan mà lấy giai cấp ,lấy cái thù hận
làm nhăn quan để đánh đổ người này, người
kia th́ nguy. Ông Hoàng Tùng viết kể lại có lúc Bác Hồ
khóc v́ bấy giờ ông phụ trách tuyên huấn, phụ trách
báo Nhân Dân nên rất gần Bác Hồ. Ông Hoàng Tùng kể lại
Bác Hồ hỏi sao Cải cách
ruộng đất lại bắn vào người đàn bà?
Người đàn bà Việt Nam khác với người đàn
bà Trung quốc. Người đàn bà Việt Nam th́ cứu
nước như Bà Trưng, Bà Triệu, nuôi chồng nuôi
con để tham gia kháng chiến cứu nước. Có người
lại nói: hổ cái hay hổ đực cũng là hổ ăn
người. Cho nông dân đấu tố để vùng lên,
nếu không th́ nông dân hàm ơn địa chủ suốt đời
! Cho nên nghiên cứu về Bác
Hồ th́ thấy Bác Hồ có nỗi cô đơn về
quan điểm “ dĩ bất biến ứng vạn biến
“ . Trước mặt ḿnh đang có kẻ thù xâm lược
như thế này. Độc lập dân tộc là cái bất
biến, cho nên phải ứng biến. Kẻ thù chính bây giờ
là đế quốc xâm lược cho nên có những vấn
đề phải lùi một chút. Trong di chúc Bác có nói khi kết
thúc chiến tranh, việc đầu tiên là phải chỉnh
đốn lại đảng chứ không phải để
đến 30 năm mới làm. Trước khi viết di chúc,
Bác xuống Côn Sơn , đọc bia Nguyễn Trăi. Người
nghiêng đầu vào bia, ôm lấy cái bia Nguyễn Trăi. Điều
đó đủ nói lên Bác có nỗi đau của Nguyễn
Trăi. Các nhà nghiên cứu giỏi, bắt vào cái thần cái ảnh
này th́ sẽ hiểu tại sao ngày rằm tháng 1 năm 1965,
Bác Hồ đọc bia Nguyễn Trăi v́ Nguyễn Trăi để
lại nỗi oan 500 năm trước, coi chừng khi kết
thúc chiến tranh đừng để lại nỗi oan này.
Trong chiến tranh th́ cái mau thuẫn trong nội bộ dân tộc
phải lùi lại. Rồi ngày 10/5/1965 Bác bắt đầu
viết di chúc, đầu năm th́ ôm lấy bia Nguyễn
Trăi ở Côn Sơn rồi lên động Thanh Hư để
cảm cái khí thiêng của dân tộc. Cái nguyên khí của đất
trời con người ấy đă cảm thấy cái chuyển
động trong cơ thể không c̣n có thể sống lâu hơn
được nữa. Rồi người sang Trung quốc
đúng ngày 19/5/ 1965 Bác về quê hương Khổng tử
giữa lúc Mao đang phê Lâm, phê Khổng, giữa lúc Trung quốc
đang làm đại cách mạng văn hoá , đập cả
trường đại học Thanh Hoa. Vậy mà Bác Hồ
cũng cụ Đổng tất Vũ, phó chủ tịch
nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa , người ngoài Đảng
như cụ Phan kế Toại của ta, di lên quê hương
Khổng tử , nằm ngủ tại đây mỗi đêm,
thắp hương cho Khổng tử . Các nhà lư luận không
giải thích xem tại sao cụ không sang Liên xô, sang Đức
để thắp mộ cụ Mác mà lại đến thắp
hương cho Khổng tử giữa lúc Trung quốc đang
đánh đổ Khổng tử . Cái triết học phương
Đông , đặc biệt là Việt Nam nó thâm thúy như
thế đấy.
Cụ Hồ chúng ta là vậy,
không trích dẫn đoạn này đoạn khác của các
triết gia mà nói dễ hiểu, cái tầng ngữ nghĩa
th́ luận nó ra. Cụ về th́ làm ǵ có bài thơ thắp hương
cho Khổng tử năm 1965. Di chúc Bác trích một mẫu đăng
báo 1969 khi người ra đi, th́ đến năm 1989, tức
là 20 năm sau, thấy không ai đá động ǵ đến
di chúc Bác cả, đồng chí Vũ Kỳ mới chép ra
trong hồi kư, “ Bác Hồ viết di chúc “ . Đặc biệt
là Bác dặn vấn đề chỉnh đốn Đảng,
miễn thuế cho nông dân và vấn đề hoả táng
cho Bác để giải thoát cho người về với
trời đất chứ giữ thi thể lại trong lăng
là ngoài ư nghĩ của Bác. Việt Nam ta không để lăng
tẩm lại đế đô, vua băng hà th́ đưa về
quê như 8 vua triều Lư là về Bắc Ninh, các vua Lê th́ về
Lam Kinh, vua Trần về Tức Mạc và Đông Bắc tổ
quốc. Bác Hồ không dặn để lại ở Ba Đ́nh.
Bác khai sinh Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ở Ba Đ́nh,
Bác hoá thân cũng đúng vào cái ngày ấy nhưng di chúc th́ hỏa
táng, sau này có nhiều điện th́ điện táng để
giữ vệ sinh, tiết kiệm đất cho nông dân. C̣n
tro cốt phân chia ra làm 3 cho Bắc, Trung , Nam . Bà con để
một nơi nào đó để tiện việc trồng
cây lưu niệm. Bác đă xem mộ cho Bác rồi, tức
là Đà Chông, dưới chân núi Tản Viên. Núi Tản Viên là
một trong những ông thánh “ tứ bất tử “ . Bây giờ
có một ông nào đó xây một cái đền thờ bằng
đá rất đẹp trên đó để thờ Bác. Lập
đền thờ Bác trên núi Tản Viên là sai ư Bác. Dân sẽ
có ư kiến là cụ Hồ không khiêm tốn, làm đền
trên núi Cha, núi Mẹ là núi Mẫu ở bên này. Chính nơi Bác
đă t́m là cái hang ở Đá Chông, dưới chân núi Đức
Tản Viên. Thời chiến tranh Bác làm việc ở đây,
Bác c̣n dặn lấy thép không rỉ để chống rết,
chống rắn nó vào. Sau khi hỏa táng th́ lấy một phần
tro cốt vào đây. Chỗ này ta có thể để một
hướng cho người đến viếng Bác thắp
hương rồi trồng cây lưu niệm. Thế là di
chúc để lại cũng không được thực hiện.
Thế gian có chuyện cha để lại di chúc cho các con
th́ các con không những không thực hiện mà c̣n đánh nhau
để chia của..Thế mà hôm nay, di chúc dặn phải
“ giữ đoàn kết như giữ ǵn con ngươi của
mắt người” th́ học tṛ – c̣n gọi là học tṛ
xuất sắc cả, mà phê cánh cả. Nguyện vọng của
Bác là Việt Nam hoà b́nh như vậy. Hoà b́nh là muôn đời.
Cái trong B́nh Ngô Đại Cáo như các thấy các cô đă giảng
bài như vậy. Nước hoà b́nh, độc lập , thống
nhất. Thống nhất độc lập đi đôi với
dân chủ và giàu mạnh chứ không dặn là xă hội chủ
nghĩa. Xă hội chủ nghĩa là cái mơ ước. Hồi
đó có đồng chí trong thường vụ trung ương
muốn Bác sửa: Việt Nam hoà b́nh, thống nhất, độc
lập , dân chủ , phú cường. Bác bảo phú cường
là từ Hán- Việt. Nên nói giàu mạnh tức dân giàu, nước
mạnh.
Năm 1947, Bác Hồ vào Thanh Hoá
có gặp cụ Lê Thước, Giáo sư Cao xuân Huy, Giáo sư
Nguyễn mạnh Tường, Giáo sư Đào duy Anh lúc đó
tản cư theo trường về Thanh Hoá. Bác vào Thanh Hoá
ngày 20/2/1947, phê b́nh tỉnh uỷ Thanh Hoá mất đoàn kết,
cách mạng chưa có ǵ đă tranh công, tranh phần. Họp
tỉnh uỷ , uỷ ban xong th́ Bác gặp các trí thức. Cụ
Lê Thước thay mặt anh em đứng dậy nói, “ Thưa
bác...” Bác Hồ nói ngay, “ Chúng ta đồng lưá, bác để
cho thanh niên gọi” . Giáo sư Lê Thước đồng tuổi,
lại cùng quê với Bác, bèn nói, “ Thưa cụ, anh em chúng tôi
đây xin cụ giải thích cho một điều: Chế
độ Cộng hoà dân chủ, Xă hội chủ nghĩa ,
Dân chủ mới, vậy chế độ gọi là ǵ cho đúng
?
Bác cười và nói, “ Xin các cụ,
chúng ta đừng lệ thuộc ǵ vào mấy cái danh từ.
Ta hăy coi đây là nước dân chủ mới. V́ bên Tây đă
có dân chủ từ năm 1789 rồi, 1776 bên Mỹ , bên Anh
c̣n trước nữa nhưng đến bây giờ chưa
thực sự có một xă hội dân chủ có công bằng.
Cụ thể nước ta bây giờ là nước dân chủ
kiểu mới. Tôi nói thí dụ như Thanh Hoá đây là đất
văn vật mà hiện nay ở miền xuôi có 80 đến
85 phần trăm, miền núi đến 95 phần tăm dân
mù chữ. Đấy, cách mạng ta tiếp thu một cái
gia tài kiệt quệ sau 80 năm bị Pháp đô hộ. Thế
th́ bây giờ chúng ta làm sao cho ai cũng biết đọc
biết viết và trung học , đại học trên cái nền
của toàn dân biết chữ. C̣n nhà bị đói nghèo th́ xoá
được đói nghèo, để có ăn, nhà có ăn rồi
th́ đến no đủ, nhà no đủ rồi th́ đến
giàu có, nhà giàu có rồi giàu nữa. C̣n nói Xă hội chủ
nghĩa hay Cộng sản chủ nghĩa ta chưa quan tâm.
Nội dung của chế độ ta phấn đấu bằng
được như trên. Bây giờ ta lại nói 10, 15 năm
nữa bằng Liên xô, bằng Mỹ th́ sao bằng được.
Ảo tưởng như thế, hăo huyền như thế
không thể thực hiện được th́ đổ vỡ
chứ ! Khi đuổi giặc xong, hy sinh hàng triệu người
mà cuối cùng không có cái bát ăn, trong khi đó một số
nước trong khu vực không đánh giặc như ta mà có
độc lập , có người suy ra cái này. Họ quên một
điều nếu không có người đi hàng đầu
trong việc chống đế quốc thực dân, làm tà cái
ư chí xâm lược , làm bá chủ thế giới của nó.
Muốn có b́nh đẳng cho các dân tộc th́ có dân tộc
phải hy sinh. Hồi chiến tranh, cứ đến chiều
th́ sợ nhất cái dàn pháo Tân tây lan, Thái lan, Nam Triều tiên.
Tất cả các nước huà vào với Mỹ. Các nước
đó được Mỹ dùng làm hậu cần tại chỗ.
Đợt đầu th́ nó đưa từ bên Mỹ (
Honolulu) sang, sau này tất cả sản xuất phục vụ
chiến tranh và các nước khu vực này. Năm rồi
tôi có bài viết Bác Hồ có 7 thư gửi Tổng thống
Truman để công nhận cho độc lập của nước
ta, để tránh một cuộc chiến tranh, thế mà có
người không hiểu ǵ cả, lại nói cụ Hồ
thích được dân tộc anh hùng, để cho dân ḿnh
khổ. Nói vậy là không phải. Khi cụ ở Luân –Đôn,
cụ ra nghĩa trang Hây-ghết đặt một bó hoa lên
mộ cụ Mác, chiêm ngưỡng một thiên tài có một
chủ nghĩa cứu cánh để tham khảo, giải
quyết vấn đề độc lập dân tộc của
nước ḿnh, chứ không phải là quyết định.
Thế cho nên những năm cụ ở Quốc tế Cộng
sản rất cô đơn, đưa ra mấy cái luận
điểm về giải phóng dân tộc th́ bị cô lập
. Lúc đầu định đi về Phương Đông.
Từ Mạc tư khoa mà sang Trung quốc chỉ được
cấp kinh phí đi đường một chuyến sang Quảng
Châu năm 1924. Đây là lần duy nhất. C̣n th́ tự nuôi
lấy ḿnh, nuôi lấy đội ngũ cán bộ cách mạng.
Cho đến 1927, về lại Mạc tư khoa,năm
1928 lại bị đẩy đi khỏi Mạc tư
khoa v́ không muốn để Nguyễn ái Quốc ở lại
Mạc tư khoa, sợ quan điểm của Nguyễn ái
Quốc sẽ ảnh hưởng đến đại biểu
của các dân tộc khác dự đại hội Quốc tế
Cộng sản. Về Thái lan
xây dựng cơ sở cách mạng trong Việt kiều rồi
sang Trung quốc để hợp nhất ba đảng Cộng
sản trong nườc thành Đảng Cộng sản Việt
Nam. Bác chủ trương đoàn kết các giai tầng xă
hội , không phân biệt giai cấp. Đó là Đảng Bác
Hồ sáng lập ngày 3/2/1930. Nhưng đến ngày 11/4, Đệ
tam quốc tế phái ngay đồng chí Trần Phú về nước,
mang theo một bản phác thảo đề cương do ông
Míp, Viện trưởng viện các vấn đề dân tộc
của quốc tế cộng sản bằng tiếng Nga để
đồng chí Trần Phú bổ sung thêm phần khảo sát
phong trào trong nước viết bằng văn bản gọi
là luận cương tháng 10 của Trần Phú, bỏ các văn
kiện của Nguyễn ái Quốc thành lập Đảng
như: chính cương vắn tắt, điều lệ vắn
tắt , chương tŕnh tóm tắt , tên mà Bác Hồ đặt
ra lúc thành lập Đảng! Bỏ bí thư đầu tiên
là Trịnh đ́nh Cửu, c̣n gọi là Cửu kính trắng,
một trí thức ở Hà nội . Vợ ông là bà Lệ,một
lăo thành cách mạng hiện nay hơn 95 tuổi , đang sống
trong một ngôi nhà ở hồ Tây. Khi Đảng của Bác
Hồ được thành lập bị bỏ , tháng 10 họp
không có Nguyễn ái Quốc, đặt lại tên Đảng
là Đảng Cộng sản Đông Dương, tất cả
mọi người phải vô sản hoá. Trong dự thảo
luận cương của đồng chí Trần Phú ( chưa được hội
nghị này thông qua) các nhà sĩ phu yêu nước th́ gọi
là bọn Huỳnh thúc Kháng, những trí thức yêu nước
th́ gọi là bọn Nguyễn an Ninh.. Tôi không dám nói bịa
trước anh linh của một nhà ái quốc , các ư trên đă
ghi trong Luận cương của đồng chí Trần
Phú. Đó là tả khuynh ấu trĩ của một thời
sai lầm về quan điểm như vậy. Chúng ta nh́n rơ
cái sai, nhưng chúng ta vẫn kính ái đồng chí Trần
Phú, một nhà yêu nước của dân tộc ta . Với Bác
Hồ th́ ngược lại, năm 1945 Bác ôm lấy cụ
Huỳnh thúc Kháng mới từ Quảng Nam ra và nói, “ Cụ
ra đây là “ an dân lạc quốc “ . Ta lục lại lịch
sử như thế để mà thấy cái ǵ cứ rập
khuôn theo nước ngoài là chết, không độc lập
là chết, xa rời dân tộc là thất bại, chứ ta
không biệt phái. Cho đến tháng 8 nam 1935, Đại hội
thứ nhất tại Ma cao, đồng chí Hà huy Tập viết
một văn bản đề nghị Đệ tam quốc
tế thi hành kỷ luật đồng chí Nguyễn aí Quốc.
Bác Hồ suốt đời chỉ
muốn cho dân tộc độc lập , nhân dân no ấm.
Khi giành được độc lập rồi th́ Bác chỉ
mơ ước làm sao cho đất nước hoà b́nh, thống
nhất, độc lập , dân chủ và giàu mạnh. Và khi
chết rồi Bác vẫn để câu ấy trong di chúc. Nếu
đi theo con đường Bác Hồ th́ lấy từ cái
này, ta đừng vội năm ba năm , năm mười
năm để vượt ai, không nên ! Mà làm cho dân nghèo có ăn
rồi no đủ, no đủ rồi giàu có, giàu có rồi
giàu nữa ..cứ thế mà làm. Mọi người đều
trong sạch, dân no đến đâu ḿnh no đến đấy.
Bây giờ một cái nhà của cơ quan huyện uỷ mà
700 triệu th́ làm được bao nhiêu trường học.
Hôm nay tôi nói với các thầy các
cô với sự tin tưởng rằng Đại hội
9 sẽ mở ra mới hơn, dân chủ trong Đảng,
nó đă chỉ ra những con người cơ hội chui
vào Đảng , khuynh đảo một thời, làm cho Đảng
ta lung lạc đi chệch hướng. Từ thời Bác
Hồ thành lập Đảng, cũng như bao lớp người
đi t́m con đường độc lập cho dân tộc,
no ấm cho nhân dân, nước phải độc lập,
dân phải no ấm, no ấm rồi th́ được học,
học ít rồi học nhiều nữa, cả dân tộc đều
trí tuệ. Đă có nền văn hoá rồi th́ dân tộc phải
đuợc học những vấn đề của thời
đại. Đến Đại hội 9 này mới thấy,
c̣n các đại hội trước chưa thấy, bế
tắc. Lần đầu tiên dân ta được tham gia ư
kiến , dù là thực hiện hay không thực hiện nhưng
trên đài, trên báo có đưa ư kiến của dân, của
người này , người khác, tuy chưa dám đưa hết.
,
Bên cạnh pḥng họp đại
hội có pḥng tập họp thư từ tố cáo của
đảng viên, cán bộ , nhân viên. Có đồng chí nhận
thư tố cáo ôm một ôm không hết. Bây giờ các đồng
chí làm chắc chắn là phiên bản ra ngay, của ông nào
giao cho ông ấy, c̣n bản gốc th́ lưu lại. Sai đúng
thế nào chưa biết, ông này ông nọ có từng cái thư
tố cáo th́ nhận lấy.Một trăm ông uỷ viên
trung ương là được phát cả, c̣n có phát cho đại
biểu đại hội không th́ không biết. Trong những
thư đó th́ chỉ có mấy ông không có bị tố cáo,
có cả danh sách gửi tiền nước ngoài, sợ quá
! C̣n làm ăn th́ phải có nhà một tầng, hai ba tầng
khang trang , bằng đồng tiền lao động, bằng
trí tuệ làm ra nó khác, bây giờ cứ ăn chận cái này
, ăn chận cái kia..
Hôm họp trung ương, có một
đồng chí cố vấn đứng dậy, bước
ra nói, “ Tôi cũng không ngờ cuộc đời hoạt động
đến hôm nay nó lại xảy ra dến mức thảm
hại như thế này...( tức là người ta dấu
cho). “Một trong ba ông cố vấn than văn như thế .
Anh ta nhận ra thảm hại th́ bây giờ đă hơn 80
tuổi rồi. Lời nói tự nó vô nghĩa, nhưng ít ra
th́ anh cũng thấy anh tưởng anh có quyền, có lực
th́ có vinh quang. .. Thực tế th́ không có! Đó là cái nhục
đó, nó nhục ngay trên cái “ ghế” của vinh, không phải
trên cái ghế cao th́ nó vinh đâu.. Tùy ở anh cống hiến
cho nhân dân, cho đất nước.. To mấy th́ to, anh đừng
tưởng ngồi cao bao nhiêu th́ vinh bấy nhiêu.. đâu
phải ? Anh tưởng anh là tổng bí thư, là uỷ viên
bộ chính trị là ghê gớm lắm..? Vừa bước
ra khỏi cái ghế là cái nhục nó đổ xuống đầu
anh ngay. Một ngướ như nhạc sĩ Văn Cao,
khi nằm xuống, hàng ngh́n ṿng hoa và trướng, nhân dân cả
nước khóc ông, vĩnh biệt ông, bởi lẽ không một
người nào lại không hơn một lần đứng
nghiêm chào cờ Tổ quốc, hát quốc ca. Biết bao thế
hệ hát những ca khúc của Văn Cao như Thiên Thai, Suối
mơ, Đàn chim việt, Làng tôi, Sông lô, Thăng Long, Hành khúc
tiến về Hà nội, Ca ngợi Hồ chủ tịch...
Trong ḍng người viếng ông, đưa ông về nơi
an nghỉ đời đời, có Đại tướng
Tổng tư lệnh Vơ nguyên Giáp đến người đạp
xích lô, người quét rác đường phố thủ đô
Hà nội. Mộ ông chôn ở Mai Dịch những ngày sau rượu
trắng người ta để trên mộ ông.
Vậy “ cái quan định luận
“ nằm xuống th́ cái mồ anh thế nào?
Trịnh công Sơn không có chức
tước ǵ cả, khi nằm xuống...một ngh́n năm
trăm ṿng hoa trắng đến viếng, ông không có vợ.
Cái đó làm ta suy nghĩ chứ. Đến như bà Khánh
Ly, một ca sĩ, vưà khóc vừa nói qua sóng đài BBC, “
Trịnh công Sơn là nửa cuộc đời tôi. Tôi là một
ca sĩ không tên tuổi nhưng nhờ nhạc Trịnh công
Sơn mà cả Sài g̣n biết đến tôi và sau này bao nhiêu
người biết đến tôi là Khánh Ly . Trịnh công Sơn
không đi với tôi, người ta tưởng tôi là người
yêu, có thể là vợ, nhưng không ! Ông Trịnh công Sơn
không của riêng ai cả. Ông là người của quê hương,
sinh ra ở quê hương, làm nhạc cho quê hương, hát
cho quê hương,và khi đất nước có biến cố,
người ta nghĩ Trịnh công Sơn sẽ đi với
tôi, nhưng không, Trịnh công Sơn là người của
quê hương và ở với quê hương. Có người
lầm tưởng ông theo Cộng sản sau năm 75. Không,
ông không theo ai, ông theo dân tộc, theo quê hương. V́ vậy
khi ông sang Pháp,ông không dám đi đâu cả, ông ở trong một
quán Việt Nam ở Paris, v́ có kẻ muốn giết ông,
coi ông là phản bội. Nhưng tôi biết Trịnh công Sơn
là người của quê hương, không bao giờ ông sang
một nước khác nói là quê hương thứ hai của
ḿnh. Hôm nay tôi khóc ông v́ nếu không có ông th́ cũng không có tôi.
Nhưng mà người như tôi cũng không lôi kéo được
ông đi. Đến khi ông sang thăm nước Pháp, haio
người ngồi với nhau, uống với nhau ly cà phê
trong quán Việt Nam, hai người cùng khóc nhớ lại
những đêm mưa Sài g̣n, chiến tranh trùm khắp quê hương,
“ hát cho đồng bào nghe”, “ dậy mà đi đồng bào
ơi . Và hôm nay ông nằm xuống trên mảnh đất
quê hương, đó là Trịnh công Sơn của quê hương.
Ông không phải là của riêng tư của ai hết.”
Một nghệ sĩ đi hát mà
để lại niềm thương tiếc trong ḷng nhiều
người . Nhạc sĩ Trần long Ẩn đọc điếu
văn trước mộ Trịnh công Sơn.
Nhắc lại 1500 ṿng hoa trắng
, người đi tiễn biệt Trịnh công Sơn toàn
đi bằng xe gắn máy, nườm nượp từ
thành phố đến nghĩa trang và đặc biệt
trong đám tang này có Đại tướng Vơ nguyên Giáp đến
tiễn đưa Nhạc sĩ Trịnh công Sơn.
Tôi thấm thiá một bài học,
“ Chức tước nó làm lợi ích cho nhân dân , người
ta quư. Làm người thầy thuốc chữa được
bệnh cho nhân dân , đó là hạnh phúc. Người thầy
giáo truyền kiến thức, học vấn cho học tṛ,
người cán bộ hoạt động trên địa hạt
của ḿnh..làm được việc có ích, nhà văn viết
những trang sách không xu thời, không bóp méo sự thật,
không dây bẩn vào tâm hồn người đọc. Những
trang sách đó người đời ghi nhận.”
LỜI CÁM ƠN CỦA NHÀ TRƯỜNG
Thưa nhà
văn Sơn Tùng
Hôm nay là buổi học cuối cùng
của khóa 40 lớp “ Đào tạo cán bộ quản lư ngành
giáo dục “ và là buổi sinh hoạt cuối cùng của khóa
học trên hội trường.
Cũng như người đạo
diễn của một vở kịch, màn cuối cùng trước
khi màn khép lại bao giờ cũng là màn xúc động nhất,
hay nhất và gây ấn tượng.
Hôm nay để có món quà chia tay các
đồng chí trước khi ra về, nhà văn Sơn Tùng,
chuyên gia nghiên cứu về Chủ tịch Hồ chí Minh, được
mệnh danh là “ nhà Hồ chí Minh học” đến nói chuyện
với chúng ta về “ chân dung một người “ mà tên tuổi
của người gắn liền
với tinh hoa và khí phách dân tộc. Đó là Chủ tịch
Hồ chí Minh muôn vàn kính yêu,và thực tế ư tưởng của
tôi được nhà văn đáp lại bằng những
mẫu chuyện của nhà văn hôm nay, tôi xin đưa ra
một suy nghĩ :
“ Đă đến lúc sự thật
phải trả về cho sự thật, lịch sử trả
về cho lịch sử với giá trị nguyên bản đích
thực của nó, dẫu có biết rằng sự thật
nói ra có xù x́ ..nhưng vẫn có giá trị hơn rất nhiều
so với lời nói nhận định sai lạc , giả
dối, giá lạnh , không có hồn, nhưng sự thật đủ
quang minh chính đại phù hợp lư tưởng con người và đặc biệt đó phù hợp
với lương tâm của chúng ta.
Giờ chia tay với nhà văn Sơn
Tùng đă đến, xin thay mặt anh em thành tâm chúc nhà văn
và gia đ́nh mạnh khoẻ, hạnh phúc, sống thanh thản
với một cuộc sống vật chất c̣n nghèo khổ.
Nhưng nhà văn ghi nhận cho
một điều, đối với anh em chúng tôi, những
giá trị tinh thần mà nhà văn đă đem đến
cho chúng tôi trong khoá học này luôn khắc sâu trong tâm trí chúng
tôi.
Trước khi ra về, một
lần nữa xin cám ơn
( Thời điểm Đại
hội 9 sắp khai mạc )
PHẦN PHỤ
LỤC
Nói chuyện với đồng
chí Cao Nham;
1) Đầu năm 2001 tôi có dịp gặp
và nói chuyện với Đại tá cựu chiến binh Cao
Nham tại Nam Đồng. Trong câu chuyện có một chi tiết
tôi không thể quên, theo lời kể của đồng chí
Cao Nham về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Mậu Thân 1968, ông Lê Duẩn nói với Bác Hồ, “ Đề
nghị Bác để tôi đánh trận này, nếu không thắng,
tôi xin từ chức tổng bí thư nhưng với điều
kiện Bác phải cách chức Vơ nguyên Giáp( không nói lư do?)
Vào trận
đánh kết quả không như ư ông Duẩn. Đến đợt
2 ông Duẩn lại nói với Bác cũng với đề
nghị trên,kết quả cũng không đạt được
như ư ông. Tiếp đến đợt 3, một lần
nữa ông Duẩn lại nhắc lại đề nghị
trên, nhưng kết quả cũng không hơn ǵ các đợt
trước
Vậy là cả 3 đợt tấn
công và nổi dậy như ông Duẩn chủ trương
không đạt theo ư định của ông. Đương
nhiên ông phải” từ chức “ như ông tự xác định
với Bác chứ, “ quá tam” mà. Nhưng không thấy ông tỏ
thái độ nào cả ( trong câu chuyện của đồng
chí Cao Nham ).
Tuy nhiên ( có thể theo tôi hiểu)
Bác Hồ cũng không muốn có sự xáo trộn khi sự
nghiệp giải phóng miền Nam chưa hoàn thành nên Bác bảo
Lê Duẩn cứ làm tổng bí thư v́ Duẩn có uy tín với
đồng bào miền Nam. C̣n chú Giáp giỏi quân sự th́ cứ
để chú ấy làm bộ trưởng quốc pḥng.
2) Về chủ trương Tổng tiến
công và nổi dậy, Bác Hồ và ông Giáp không tán thành, nhưng
thiểu số phải phục tùng, phải chấp hành, nhưng
v́ lợi ích của cách mạng không để tổn thất
cho lực lượng ta nên Bác đặt vấn để
hỏi ông Giáp, “ Có cách nào giảm nhẹ thiệt hại? Ông
Giáp nói, “ Chỉ có cách đánh các căn cứ gần giới
tuyến để kéo bớt lực lượng địch
ra ngoài này. “
V́ thế ta mới thấy có các trận
đánh ác liệt dọc đường 9 như Côn Tiên, Dốc
Miêu, Khe Sanh, A sâu, A lưới.. Địch phải kéo ra 4
sư đoàn để đối phó ở ngoài này, Và Tổng
thống Giôn xơn đă có một câu tuyên bố phải tử
thủ Khe Sanh chính vào lúc đó.
3) Vậy căn cứ vào đâu mà ông Duẩn
dám đề nghị với Bác sự tự khẳng định:
Nếu không thắng th́ xin từ chức?
Câu hỏi này có thể được
giải đáp với mẫu chuyện của ông Mười
Hương như sau:
Năm 68, khi tôi c̣n công tác ở
K.68 ( Bộ CA) ( Tôi về bộ CA tháng 8/1966 sau khi tốt
nghiệp đại học ngoại giao). Ông Mười Hương
là cục trưởng thay thế ông Nguyễn thế Tùng về
hưu. Lúc đó cơ quan c̣n đang ở Quan Nhân, sơ tán
cách Hà nội 30 km, ông Mười Hương nói chuyện với
cán bộ P ( K 68) có tổ công tác của tôi. Ông nói, “ Ư định
của ta trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy
tết Mậu Thân 1968 là chiếm
đài phát thanh Sài g̣n, đánh sứ quán Mỹ bắt Martin,
đánh Dinh Độc Lập bắt Nguyễn văn Thiệu,
để chúng tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh
Sài g̣n
Nhưng trận đánh diễn
ra không suông sẻ như ư muốn của ông Duẩn v́ Đại
sứ Martin ở cách sứ quán 200m, c̣n Tổng thống Thiệu
về Cần Thơ ăn tết, do không nắm sát t́nh h́nh
đó nên không bắt được chúng ( theo lời kể
của ông Mười Hương ). V́ thế nên mới có đợt
1, đợt 2, rồi đợt 3 là bởi v́ sau khi chiếm
được đài phát thanh Sài g̣n từ đợt 1 rồi,
nhưng lực lượng ta cứ phải giữ nó đấy
chờ bắt hai tên kia nên mới sinh ra có đợt 2 nhưng
cũng không tóm được Martin và Thiệu ,nên lực lượng
chiếm đài phát thanh vẫn cứ phải cố thủ
để chờ tiếp đợt 3 ( xem sao) . Và kết
quả th́ ai cũng đă biết.
Ông Mười Hương nói tiếp,
“ Năm 1967 Bác có ư định vào Nam bằng đi bộ,
nhưng Bộ chính trị không đồng ư v́ tuổi tác sức
khoẻ của Bác ( có lẽ chỗ này trùng với câu chuyện
ông Sơn Tùng nói về hội nghị ba nước Đông
Dương họp ở Phnom Pênh lúc bấy giờ ). Nên ta
cố ư giành thắng lợi trong đợt Mậu Thân 68,
chấm dứt chiến tranh để đưa Bác vào Nam
theo nguyện vọng của Bác. ( Câu chuyện này chính xác đến
đâu th́ tôi không rơ, nhưng đây là câu chuyện của ông
Mười Hương nói ở P 5 chúng tôi năm đó ).
Đến đợt 3 cũng không
bắt được Martin và Thiệu th́ cơ hội “bất ngờ “
không c̣n nữa và địch phản công lại . Thế là
chủ trương Tổng tiến công và nổi dậy nhằm
mục đích tối thượng không đạt được.
Tuy nhiên sau đó Mỹ buộc phải chấp nhận đàm
phán với ta ở Paris
4) Vế cuộc đàm phán Mỹ- Việt
ở Paris ta đă chuẩn bị từ năm 1963, khi tôi c̣n
đang học khoá 3, khoa Đối ngoại của trường
Kinh Tài.
Trong buổi
nói chuyện với sinh viên ngoại giao khoá đó, sinh viên nêu
câu hỏi với Bộ trưởng Xuân Thuỷ về
t́nh h́nh chiến sự và đàm phán sẽ diễn ra theo hướng
nào và triển vọng th́ ông Xuân Thuỷ nói, “ Cuộc chiến
diễn ra ác liệt thế nào th́ ta đă biết, c̣n về
đàm phán th́ cũng v́ thế mà ta xác định thế này,
rồi ông đọc hai câu thơ ( Ông Xuân Thủy là nhà báo,
bộ trưởng ngoại giao và là nhà thơ ):
Đàm đàm đánh đánh đàm
đánh đánh
Đánh đánh đàm đàm đánh
đàm đàm.
Rồi ông
giải thích cuộc đàm phán với Mỹ sẽ diễn
ra cù nhầy kiểu như thế ,mà đúng là thế thật.
Hội nghị Paris kéo dài từ năm sau tết Mậu Thân
1968 cho đến đầu năm 1973 ( 5 năm).
Để chuẩn bị cho cuộc
đàm phán đó, ông Xuân Thuỷ được rút khỏi
chức bộ trưởng ngoại giao để làm trưởng
đoàn đàm phán ở Paris. Ông Nguyễn duyTrinh lên làm bộ
trưởng ngoại giao từ đó.
Dưới đây là mẫu chuyện
nhỏ về ông Hà văn Lâu. Bác Hồ mời ông Hà văn
Lâu đến giao nhiệm vụ. Ông Hà văn Lâu đến
giao nhiệm vụ. Ông Hà văn Lâu hỏi Bác về công tác
sắp được giao, th́ Bác nói, :
“ Tên chú thế
nào th́ công tác của chú cũng thế “
Đó chính
là Hội nghị Paris là nơi ông Hà văn Lâu công tác lâu năm
ở đoàn đàm phán của ông Xuân Thuỷ suốt 5 năm
Câu chuyện tôi đuợc nghe kể
lại
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945,
Nguyễn huy Tưởng có hỏi cụ Hồ :
_ Bây giờ
đạo đức dạy cái ǵ ?
Cụ Hồ nói:
_ Cẩn,
kiệm, liêm, chính.
Chắc là ông
Tưởng nghĩ rằng cách mạng là đổi mới
tất cả v́ khi đó cũng đang có phong trào vận động
xây dựng đời sống mới th́ dạy đạo
đức cũng phải là “ đạo đức mới
“ . Lúc đó chưa có khái niệm đạo đức xă hội
chủ nghĩa như bây giờ , nên ông Tưởng mới
nói :
_ Cái đạo đức đó cổ
quá
Th́ cụ Hồ
trả lời như thế này với ông Tưởng:
_ Thế
th́ ngô, luá có từ bao giờ ?
( mất một
đoạn )..có từ cổ xưa rồi, mà đạo đức
“ Cần, Kiệm, Liêm , Chính ) là 4 đức tính thuộc về
đạo đức nhân văn đă đưa xă hội
tiến bộ và phát triển không ngừng đến ngày
nay. Và như vậy th́ nó cũng không bao giờ cũ , không
bao giờ cổ, cũng như ngô, luá chúng ta ăn có từ
thời thượng cổ đến nay nó đang nuôi chúng
ta.
Xă hội loài người mà xa rời
4 đức tính đó th́ chắc ai cũng hiểu là thế
nào rồi.
Đó là ư nghĩa của một
trong những câu thành ngữ cổ xưa “ c̣n giá trị với thời đại như
nhà văn Sơn Tùng nói ở trường đào tạo cán
bộ quản lư ngành giáo dục ngày 11 tháng 4 năm 2001
Trích một số thư mới đây
của Cựu chiến binh Trần nhật Độ, nguyên
chính ủy bộ tư lệnh binh chủng đặc công
( Khu tập thể Nam Đồng- Đống Đa- Hà nội).
Sau khi nhận xét , đánh giá công
lao cống hiến vào sự nghiệp giải phóng dân tộc
thống nhất đất nước của một số
đồng chí lănh đạo, kể cả khuyết điểm
thiếu sót, thư đă viết:
· Mậu Thân 1968, mọi người không
đồng t́nh đánh đợt 2, 3 . Vốn không phải
thời cơ phát huy vai tṛ của chủ lực, lại không
c̣n điều kiện phát triển tiến công mà tổng
khởi nghĩa mà ngay từ đầu đă không khuấy
lên được
· Việc thành lập quân đoàn , cuối
năm 1970 anhVăn đă đề ra, nhưng bị bác, bị
thiểu số. Năm 1971 trong chiến dịch Trị Thiên
cũng vậy. Đến tháng 1o năm 1973 mới có quân đoàn
1, sau đó là quân đoàn 2 ở Trị Thiên. Nên nhớ cụm
sư đoàn là cấp số cọng, quân đoàn là cấp
số nhân.
· Chiến
dịch Trị Thiên năm 1972 , nếu giữ nguyên ư kiến
anh Văn lấy lại Trị Thiên làm hướng chủ
yếu th́ sẽ có cánh quân thu hồi vào Thừa Thiên Huế. Hiệu quả
chiến dịch sẽ khác xa.
· Đánh Kampuchia, anh Văn cho rằng chỉ
nên đánh đến sông Mêkông, dừng lại và keó
Shihanouk về để cách mạng
bạn tự phát triển, tự giải phóng. Ta không mang
tiếng, không sa lầy, không bị cô lập.
· Trong các cuộc
nói chuyện với đồng bào ,cán bộ , không ít lần
đồng chí Lê Duẩn đă có lời phê phán, phản bác
Bác Hồ và có ư vượt trội lên. Ví dụ như nói,:
-Giáp th́ sợ Mỹ, Bác th́ sợ
Trung quốc. Bác không sát thực tế . Bác không có điều
kiện nghiên cứu cơ bản. Tôi đây, tôi nghiên cứu
rất nhiều lư luận cơ bản. Bác chịu ảnh
hưởng Nho giáo, Khổng tử..thậm chí có những
lần Bác đă đến hồi lẩm cẩm.”
( mất một
đoạn )..” Thời thắng Mỹ “ dưới bút danh
Thép Mới , quy hoạch 36 bài sẽ đưa ra kết luận
“ Thời thắng Mỹ “ là thời đại ǵ ? Đă đăng
được 16 bài trên báo Nhân Dân. Do làn sóng phản ứng
của đảng viên, cán bộ, nhân dân, buộc phải đ́nh
chỉ không được đăng tiếp nữa. So với
16 bài đă đăng, tác giả và báo Nhân Dân đă kịp
chấm dứt và cắt ngang thời đại Hồ chí
Minh vào năm 1954 và hạ bệ Hồ chí Minh ở đây
với hai sai lầm chết người trên hai mục tiêu
cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ. Đó
là chống phong kiến th́ chậm tiến hành cải cách
ruộng đất. Đối với chế độ xâm
lược th́ hiệp định Ge-ne-vơ là thoả hiệp
với địch, là ảo tưởng , là ngăn cản
nhân dân Việt Nam, Lào, Kamphuchia giành thắng lợi hoàn toàn.
· Cũng trên báo Nhân Dân, bài báo giới thiệu
tác phẩm , “ Bức thư vào Nam “ của đồng chí Lê
Duẩn, đă xưng tụng đồng chí Lê Duẩn là “
tổng công tŕnh sư “ của đường lối đánh
Mỹ và “ tổng tư lệnh trên thực tế “ . Chỉ
một câu ngắn gọn gồm vỏn vẹn 16 từ ,
bài báo đă đồng thời phủ định hai nhân vật
lịch sử trọng yếu là Hồ chí Minh và Vơ nguyên Giáp.
Hồ chí Minh là linh hồn của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, là đại biểu cho ư chí và
khí phách của toàn dân tộc, là người thiết kế
đường lối đánh Mỹ đă được
manh nha từ chiến thắng Điện biên phủ. Từ
Hội nghị Geneve, Vơ nguyên Giáp là bí thư quân uỷ trung ương
và tổng tư lệnh. Cho nên không thể là danh nghĩa mà
là thực quyền chiến đấu và hoạt động
( có văn bản chính thức của trung ương).
· Nghị
quyết 15 năm 1959 là do Bộ chính trị phân công Vơ nguyên
Giáp khởi thảo với sự chấp bút của Hoàng Tùng
và Trần quang Huy tại Đồ Sơn
· Sau khi nước nhà thống nhất,
nếu chấp nhận ư kiến của ông ( Đại tướng
Vơ nguyên Giáp) về xây dựng kinh tế là: trước hết
phải để thời gian khôi phục rồi mới
tính đến phát triển, và phải đặt nông nghiệp
là mặt trận hàng đầu, th́ chắc chắn là hạn
chế được những sự mất cân đối
nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân lúc bấy
giờ, đă dẫn đến khủng hoảng đời
sống.
· SƠN TÙNG